Năm Ất Mão 1495
Đặng Ất (1495 - ?)
Người xã Hải Triều huyện Ngự Thiên – Nay thuộc xã Phạm Lễ huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình.
24 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Nguyễn Thiến (1495 - 1557)
Người xã Canh Hoạch huyện Thanh Oai – Nay là thôn Canh Hoạch xã Dân Hòa huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây.
38 tuổi đỗ Hội nguyên, được ban Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Nhâm Thìn* niên hiệu Đại Chính 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Lại bộ Thượng thư, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tước Thư quận công. Sau vì bất mãn với nhà Mạc, ông cùng với thông gia là đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly dẫn quân chúng trốn vào Thanh Hóa quy thuận triều Lê Trung hưng. Vua Lê Trung hưng ban thưởng, cho giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển bổ quan lại cho nhà Lê trong khoảng 8 năm. Mất năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi. Con của ông là Thường quốc công Nguyễn Quyện, danh tướng của nhà Mạc. (* Khoa thi này (1532) triều Mạc lấy đỗ 27 tiến sĩ) .
Năm Ất Mão 1555
Đỗ Cung (1555 - ?)
Người xã Đỗ Xá huyện Đường Hào – Nay là thôn Đỗ Xá xã Trai Trang huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng. Trú quán xã Phù Vệ - Nay thuộc xã Chiến Thắng (cũ) huyện Kim Thi tỉnh Hải Hưng. Con của Đỗ Trác Dị, ông nội Đỗ Thạnh.
26 tuổi đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Canh Thìn (*) niên hiệu Diên Thành 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Đông các hiệu thư. (* T.Thư ghi khoa này (1580) triều Mạc lấy đỗ 24 tiến sĩ. LTĐK ghi 17 người)
Nguyễn Bỉnh Trục (1555 - ?)
Người xã La Miệt huyện Quế Dương – Sau là thôn La Miệt xã Tân Dân (cũ) huyện Quế Võ tỉnh Hà Bắc.
35 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) đời Mạc Mậu Hợp. Quy thuận nhà Lê, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Nguyễn Tảo (1555 - ?)
Người xã Thì Mại huyện Bảo Lộc – Nay là thôn Thì Mại xã Mỹ Thái huyện Lạng Giang tỉnh Hà Bắc. Cháu của Nguyễn Xuân Lan.
40 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Thị lang.
Nguyễn Dụng (1555 - ?)
Người phường Cổ vũ huyện Thọ Xương – Nay là phường Hàng Gai quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trú quán xã Hoa Đường huyện Đường An – Nay thuộc thôn Lương Ngọc xã Thúc Kháng huyện Cẩm Bình tỉnh Hải Hưng.
38 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp. Sau theo về nhà Lê, từng được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, tước bá.
Phạm Hồng Nho (1555 - ?)
Người xã Đoàn Bái huyện Gia Phúc – Nay là thông Bái xã Toàn Thắng huyện Tứ Lộc tỉnh Hải Hưng.
38 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp. Theo về nhà Lê. Được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Hữu thị lang, tước bá.
Nguyễn Thực (1555 - 1637)
Người xã Vân Điềm huyện Đông Ngàn – Nay là thôn Vân Điềm xã Vân Hà huyện Đông Anh, Hà Nội. Cha của Nguyễn Nghi; cố nội của Nguyễn Khuê, Nguyễn Sĩ; cao cao tổ Nguyễn Thẩm, Nguyễn Thưởng.
41 tuổi đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Ất Mùi (*) niên hiệu Quang Hưng 18 (1595) đời Lê Thế Tông. Từng đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến Tán trị công thần, Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các địa học sĩ, Quốc lão, Thái phó, tước Lan quận công. Được về trí sĩ, thọ 82 tuổi. Khi mất được tặng Thái tể. Tác phẩm hiện còn 16 bài thơ chữ Hán chép trong TVTL.
(*) Khoa thi này (1595) lấy đỗ 6 tiến sĩ.
Nguyễn Đức Trạch (1555 – 1613)
Người xã Ngọc Lập huyện Đường Hào (Thôn Ngọc Lập hiện không còn tên trên bản đồ, vị trí tương ứng vào khoảng xã Dị Sử huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng ngày nay).
41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng 18 (1595) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Tự khanh. Năm Hoằng Định Quý Sửu (1613) đi sứ sang nhà Minh, mất trên đường đi, được tặng chức Thị lang.
Năm Ất Mão 1615
Dương Hạo (1615 - 1672)
Người xã Lạc đạo huyện Gia Lâm – nay là xã Lạc Đạo huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng. Con của Dương thuần; ông nội Dương Lệ; tằng tổ Dương Sử, Dương Trọng Khiêm.
26 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) đời Lê Thần Tông. Từng đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến ngự sử đài đô ngự sử. Thọ 58 tuổi.
Trương Quang Tiền (1615 - 1677)
Người xã Kim Hoạch huyện Thụy Nguyên – Nay thuộc xã Thiệu Phúc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hóa. Đổi tên là Luận Đạo.
26 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niêu hiệu Dương Hòa 6 (1640) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Đông các hiệu thư. Thọ 63 tuổi.
Lê Vinh (1615 - 1684)
người xã An Hoạch huyện Đông Sơn – Nay là thôn Yên Trạch xã Đông Tân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.
42 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức 4 (1656) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Hộ bộ Hữu thị lang, tước tử // về trí sĩ, thọ 70 tuổi. Khi mất, được tặng Binh bộ Thượng thư.
Bùi Văn Trinh (1615 - 1683)
Người xã Hương Canh huyện Từ Liêm – Nay thuộc xã Xuân Phương huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cháu năm đời của Bùi Doãn Đốc. Đổi tên là Đình Trinh.
45 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659). Lại thi đỗ khoa Đông các. Làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang, tước tử. Khi mất, được tặng Lễ bộ Tả thị lang, tước bá. Thọ 69 tuổi.
Năm Ất mão 1675
Hồ Phi Tích (1675 - 1744)
Người xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu – Nay là xã Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
26 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa 21 (1700) đời Lê Hy Tông. Từng đi sứ sang nhà Thanh. Làm quan đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Quỳnh quận công, về trí sĩ. Thọ 70 tuổi. Sau khi mất, được tặng chức Thiếu bảo. Tác phẩm có Cùng đạt gia huấn.
Phạm Quang Dung (1675 - ?)
Người xã Đông Đình nguyên Ngạc huyện Từ Liêm – Nay là thôn Đông Ngạc xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sau đổi tên là Phạm Công Dung. Cháu họ của Phạm Quang Trạch; em của Phạm Quang Hoàn, anh họ Phạm Quang Ninh, cháu xa đời Phạm Lân Định, Phạm Thọ Chỉ.
32 tuổi đỗ Đình nguyên Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất (*) niên hiệu Vĩnh Thịnh 2 (1706) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang, tước Lệ Phái hầu. Sau khi mất, được tặng Hộ bộ Thượng thư.
(*) Khoa thi này (1706) lấy đỗ 5 Tiến sĩ.
Lê Hữu Mưu (1675 - ?)
Người xã Liêu Xá huyện Đường Hào – Nay là thôn Liêu Xá xã Liêu Xá huyện Mỹ Văn tỉnh Hải Hưng. Con của Lê Hữu Danh, em của Lê Hữu Hỷ, anh của Lê Hữu Kiều, cha Lê Trọng Tín, bác Lê Hữu Dung.
36 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1770) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Công bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên. Khi mất, được tặng Công bộ Tả thị lang.
Nguyễn Đức Ánh (1675 - ? )
Người xã Phật Tích huyện Tiên Du – Nay là thôn Phật Tích xã Phật Tích huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc. Cha của Nguyễn Đức Vĩ, ông nội Nguyễn Quýnh.
41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang, về trí sĩ. Sau khi mất, được tặng chức Công bộ Thượng thư, tước hầu.
Năm Ất Mão 1735
Phan Lê Phiên (1735 - 1809)
Người xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm – Nay là thôn Đông Ngạc xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sau đổi là Phan Trọng Phiên.
23 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757) đời Lê Hiển Tông. Ông làm quan đến cuối đời chúa Trịnh Sâm đã thăng đến chức Tả thị lang bộ Hộ. Sau khi Trịnh Sâm chết (1782), ông nhận làm cố mệnh đại thần, lập Trịnh Căn lên kế vị. Khi tam phủ lập Trịnh Tông, ông đang giữ Tham tụng, bị cách chức. Đến đầu năm Đinh Mùi (1787) Lê Chiêu Thống về Thăng Long, lại giao cho ông giữ chức Bình chương sự, thăng đến chức Hành tham tụng. Hộ bộ Hữu thị lang, Thự Lại bộ Hữu thị lang kiêm Tri Quốc tử giám Tư nghiệp, tước Tứ Xuyên hầu. Tuy là thân thần nhưng khi Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc ông không đi theo. Đầu đời Gia Long, ông mất tại quê nhà (1809) thọ 82 tuổi.
Tác phẩm có công trình biên khảo Cao Bằng thực lục, đồng biên soạn Đại Việt lịch triều đăng khoa lục. Ngoài ra ông còn biên tập thơ Ngự chế của Trịnh Doanh và Gia phả họ Phan xã Đông Ngạc.
Lý Trần Quán (1735 - 1786)
Người xã Vân Canh huyện Từ Liêm, Hà Nội. Tổ tiên ông vốn họ Đặng, ông là hậu duệ của Lý Trần Cẩn, anh Lý Đình Dự.
32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời Lê Hiển Tông. Khi xảy ra sự biến năm Bính ngọ (1786) ông đang giữ chức Thiêm sai Lại phiên đi phủ dụ phủ Tam Đới. Đang đóng quân ở huyện Yên Lãng, gặp khi Vương Trịnh Khải thua trận chạy lên phía Tây, nghe tin có Lý Trần Quán đang đóng ở đó vội chạy đến để nhờ Quán giúp sức. Không ngờ thủ hạ của ông có tên là Nguyễn Tranh liền bắt ngay Trịnh Khải đưa về nộp cho quân Tây Sơn. Khi biết tin thì đã quá muộn. Lý Trần Quán kêu khóc thảm thiết rồi nhờ người đào huyệt tự chôn sống mà chết (7/1786). Đầu đời Chiêu Thống (1787 - 1788), ông được tuyên dương Tiết nghĩa công thần, truy tặng hàm Thượng thư, tước quận công, phong phúc thần.
Năm Ất Mão 1795
Hoàng Tế Mỹ (1795 - ?)
Người xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm tỉnh Sơn Tây – Nay là thôn Đông Ngạc xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, Hà Nội. Con Hoàng Xuân Thự, cha Hoàng Tướng Hiệp.
Sinh năm Ất Mão. Giải nguyên khoa Ất Dậu (1825). 32 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh 7 (1826) (*). Lúc đầu ông được bổ chức Án sát sứ Hải Dương, phạm lỗi bị cách chức. Sau thăng Bố chánh sứ Hải Dương, đổi làm Án sát sứ Cao Bằng, lại được điều về Kinh giữ các chức Hữu thị lang bộ Hình. Năm Thiệu Trị 1 (1841) ông được hộ giá vua Thiệu Trị đi kinh lý các tỉnh Bắc Kỳ. Sau đó được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh, trở về thăng chức Tham tri bộ Binh. Năm Tự Đức 1 (1848) sung chức Kinh lịch giảng quan, kiêm quản Hàn lâm viện. Sau khi mất được tặng chức Lễ bộ Thượng thư.
Hoàng Tế Mỹ hiệu Phục Đình; tác phẩm có Đông Bình Hoàng gia thi tập.
(*) Khoa thi này (1826) lấy đỗ 10 Tiến sĩ.
Nguyễn Văn Lý (1795 - ?)
Người phường Đông Tác huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội – Nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cha của Nguyễn Hữu Quý.
Sinh năm Ất Mão. Cử nhân khoa Ất Dậu (1825). 38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832). Hàn lâm Biên tu, thuyên bổ Tri phủ Thuận An. Năm Thiệu Trị 1 (1841), thăng Án sát Phú Yên // bị cách chức, sau được phục dụng chức Đốc học Hưng Yên, hàm Hàn lâm viện Trước tác. Thọ 74 tuổi.
Nguyễn Văn Lý tự Tuân Phủ, hiệu Đông Khê. Tác phẩm có Đông Khê thi văn tập.
Năm Ất Mão 1855
Trần Khánh Hội (1855 - ?)
Người xã Phong Lộc huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình – Nay thuộc xã Lộc Thủy huyện Lệ Ninh tỉnh Quảng Bình.
Sinh năm Ất Mão. Cử nhân khoa Quý Dậu (1873).
30 tuổi đỗ Phó bảng Ân khoa Giáp Thân niên hiệu Kiến Phúc 1 (1884). Làm quan Chưởng Ấn.
Đặng Như Vọng (1855 - ?)
Người Giáp Tây huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Nay thuộc huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Sinh năm Ất Mão. Cử nhân khoa Giáp Thân (1884).
35 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái 1 (1889). Tri phủ.
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919. Nxb Văn học 1993