Đồng tiền chúc phúc, mừng độc lập
TS. Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, cho biết kỹ thuật đúc tiền Thái Bình Hưng Bảo tương đối thô. Căn cứ vào tiêu bản mẫu vật có thể phân biệt tiền Thái Bình Hưng Bảo làm 2 loại chủ yếu. Thứ nhất là loại lưng trơn. Tiền này có nhiều bản, có loại tiền to chữ to, tiền nhỏ chữ nhỏ, có loại nét chữ mảnh, có loại nét chữ thô to. Loại thứ hai, tiền mặt lưng có chữ Đinh là họ của vua. Mặc dù vậy, mặt tiền thuần phác, phong cách cơ bản thống nhất, có nhiều điểm giống với tiền thời Ngũ Đại của Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo ông Quân, tiền Thái Bình Hưng Bảo cũng có những điểm khác biệt so với các loại tiền Trung Quốc trước và đồng thời với nó. Trước thế kỷ 10, hầu hết các loại tiền Trung Quốc đều ghi chữ “thông bảo”, ngoài ra còn ghi “nguyên bảo”, “trọng bảo”. “Chữ Hưng trong tiền Thái Bình Hưng Bảo của Đinh Bộ Lĩnh là một điểm sáng tạo của tiền Việt Nam. Hưng Bảo tức là khác với loại tiền thông bảo truyền thống của Trung Quốc. Câu này còn mang ý nghĩa chúc phúc nước Đại Cồ Việt quốc vận hưng thịnh, đời đời hưởng thái bình”,TS. Phạm Quốc Quân phân tích. TS. Quân cho rằng giai đoạn đầu của triều Đinh, chiến tranh liên miên, nông dân phiêu tán, nông nghiệp đình đốn, thủ công nghiệp chủ yếu phục vụ việc chế tạo vũ khí. Sau khi chiến tranh kết thúc, Đinh Bộ Lĩnh bắt đầu khôi phục sản xuất, nông dân trở về quê cũ, thương nghiệp thành thị bắt đầu xuất hiện. Sau khi triều Đinh được thành lập đúc tiền niên hiệu Thái Bình, tức loại tiền Thái Bình Hưng Bảo.
Ông Quân cũng cho biết tiền Thái Bình Hưng Bảo có lẽ được đúc tập trung trong khoảng niên hiệu Thái Bình từ năm thứ nhất đến năm thứ 8. “Sau đó, nội bộ chính quyền nhà Đinh không ngừng tranh chấp, chính cuộc rối ren, việc đúc tiền có phần bị hạn chế, hoặc ngừng hẳn. Tiền Thái Bình Hưng Bảo chủ yếu được sử dụng ở miền Bắc Việt Nam, lưu thông trong địa bàn của chính quyền nhà Đinh”, ông Quân cho biết.
Chính vì thế, ông Quân cho rằng: “Tiền Thái Bình Hưng Bảo là đồng tiền đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập. Cho dù phạm vi lưu thông còn hạn chế, nhưng đối với lịch sử phát triển tiền tệ Việt Nam có một ý nghĩa vô cùng trọng yếu”.