Xuân Đinh Hợi (1947), lần đầu tiên, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đón xuân ở Mặt trận Liên khu I. Xuân Kỷ Hợi này (2019), người còn người mất. Trong cái nao nức, hy vọng năm mới với bao điều tốt lành, an vui, những cựu chiến binh của Liên khu I Anh hùng ôn lại kỷ niệm và họ không thể quên hình ảnh cành đào tươi thắm giữa phòng khách trong ngôi biệt thự Anh Hoa ở đầu Ngõ Gạch*. Tối 30 Tết năm ấy, các đồng chí lãnh đạo Uỷ ban Kháng chiến Liên khu I chúc Tết lãnh sự quán Anh, Mỹ, Pháp, Trung Hoa đang có mặt tại Hà Nội. Giữa khói lửa chiến tranh, cành đào Nhật Tân càng thêm tươi thắm. Đó chính là thông điệp của niền tin chiến thắng và khát vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam.
Tôi đã từng cố gắng đi tìm các nhân chứng lịch sử để tìm xem ai đã mang cành đào từ Nhật Tân vào Liên khu I đêm 29 Tết, nhưng thời gian đã phủ lớp mờ lên những người đã sống gần trăm tuổi. Và Đội tiếp tế Trúc Bạch - Lãng Bạc, trong đó lực lượng chủ yếu là phụ nữ cứu quốc Yên Phụ như bà Thuần, bà Nhẫn, bà Minh… đã không quản hiểm nguy, đêm đêm đeo ba lô, ruột tượng, vượt qua vọng gác của địch đầu cầu Long Biên vào tiếp tế và đưa công văn vào Liên khu I…nay cũng đã về với tổ tiên. Những lần đến nhà các bà trong Đội tiếp tế, tôi chỉ nhận cái lắc đầu: “Lâu quá rồi cô ạ. Chỉ còn nhớ trên cánh đồng Quảng Bá năm ấy, chúng tôi bó hoa thành từng bó sao cho gọn gàng, cánh hoa không bị dập nát để mang vào cho các chiến sĩ đang chiến đấu gian khổ trong Liên khu I. Chẳng nhớ ai cầm cây đào ấy nữa.” Việc mò kim đáy bể đành tạm gác, cho đến một hôm, tình cờ, tôi được bà Lê Phương vốn là con gái Kẻ Bưởi nổi tiếng khéo tay dệt lụa, Bí thư Phụ nữ Cứu quốc khu Đại La (năm 1946) cho biết: “Ông Phong (Hội), nguyên Chủ tịch khu Trúc Bạch - Lãng Bạc (gọi tắt là Trúc - Lãng còn khoẻ mạnh, cháu đến nhà ông sẽ được biết thêm về bà Cao Thị Nga, lúc đó đang công tác ở khu Trúc - Lãng và có thể tìm được người cầm cành đào vào Liên Khu I”.
Tham mưu trưởng Trung đoàn Thủ đô Hoàng Phương (Ảnh do bà Đinh Thị Quý, vợ Trung tướng Hoàng Phương cung cấp)
Tôi đã khấp khởi lao ngay đến nhà ông ở tập thể Thành Công. Sổ tay ghi chép của tôi vẫn lưu câu chuyện ông kể: “Hồi đó, tôi là Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến khu Trúc Bạch - Lãng Bạc, anh Vị Hải là Phó chủ tịch, trực tiếp phụ trách đội tiếp tế - liên lạc. Cứ chiều chiều, đội tập trung ở một nhà dân là kho hậu cần của Khu, nhận lương thực, thực phẩm công văn, giấy tờ rồi lên đường vào Liên khu I. Trên đoạn đường dài 4km, nguy hiểm nhất là từ An Dương men chân đê Yên Phụ vào Cột đồng hồ, lên ngõ Phất Lộc để vào kho hậu cần của Liên khu I ở 98 Hàng Bạc an toàn, sau đó cáng thương binh và mang thuốc Tây ra. Có khi địch từ bốt đầu cầu Long Biên quét đèn pha, phải nằm rạp xuống đất bãi tựa luống khoai. Gần Tết, tôi nhận được thư của các anh trong Liên khu I gửi ra: “Các cậu gửi vào những thứ cần thiết để chúng tớ ăn Tết cho đàng hoàng”. Vì thế, chúng tôi chuẩn bị gạo nếp, thịt bò, gói giò, bánh chưng, rau tươi khá đầy đủ. Hoa tươi càng không thể thiếu. Kể đến đây ông chợt ngừng lời, đi lấy cuốn sổ nhỏ, giấy đã ố vàng, lật tìm… ông không giấu nổi xúc động:
- Đây là bài thơ tôi và bà ấy cùng xúc cảm làm khi chị em đang bó và xếp hoa. Cháu cứ hình dung cánh đồng Quảng Bá bạt ngàn hoa layơn, cúc vạn thọ, thược dược…và bà ấy là bông hoa đẹp nhất trong chiều áp Tết. Tờ giấy tôi viết bài thơ đã bị mất trên đường kháng chiến, tôi chép lại vào cuốn sổ này. Hoa đào năm ấy gắn liền với kỷ niệm của tình yêu thời trai trẻ, làm sao tôi quên được.
Nghe ông bồi hồi kể lại chuyện ngày xưa, tôi chợt nhớ bà Lê Phương bảo: “Bà Nga đẹp lắm, hoa khôi nữ sinh trường Đồng Khánh đấy”. Thì ra bà Hoàng Liên từng công tác ở báo Nhân Dân cũng chính là bà Cao Thị Nga đã tham gia tổ Phụ nữ Cứu quốc từ đầu năm 1945 cùng bà Lê Thi (tức Dương Thị Thoa, con gái giáo sư Dương Quảng Hàm), bà Tuyết Minh (Bí thư chi bộ khu Đông Thành năm 1946). Kháng chiến bùng nổ, bà Nga từ Bí thư phụ nữ khu Trúc Bạch chuyển sang phụ trách công tác cứu thương của khu Trúc - Lãng. Và tình yêu lãng mạn cách mạng trong ngọn lửa chiến đấu như tiếp thêm đôi cánh cho những hồn thơ. Ông cẩn thận cất cuốn sổ vào tủ: “Ai trong đội tiếp tế mang cành đào đẹp nhất vào Liên khu I, tôi cũng không thể nhớ nữa. Chiều hôm đó, cùng anh Vị Hải đứng trên rặng ổi Quảng Bá, nhìn chị em đeo ruột tượng, ba lô với hoa tươi trên lưng như mang cả mùa xuân cho các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô”.
Ông Lê Trọng Hàm (đứng thứ 3 từ phải sang) và các chiến sĩ
khu Đông Thành những ngày cuối năm 1946
Vậy là đi tìm người mang cành đào vào Liên khu I, tôi lại được nghe một câu chuyện cảm động khác. Xuân này, cả ông Cao Phong và ông Vị Hải, bà Nhẫn, bà Thuần… đều đã về cõi cực lạc. Nhưng huyền thoại về cành đào Nhật Tân xuân Đinh Hợi thì còn mãi trong những câu chuyện kể truyền từ đời này sang đời khác về một Hà Nội chiến thắng và kiêu hùng. Cành đào đỏ thắm với các món ăn truyền thống của Tết dân tộc mà Ủy ban Kháng chiến Liên khu I tiếp các lãnh sự quán Anh - Pháp - Mỹ - Tưởng đã gây ấn tượng mạnh cho họ. Ông Su-li-van, lãnh sự Mỹ khâm phục nói: “Kiên trì, kiên trì, các ông sẽ là người chiến thắng”.
Ông Lê Trung Toản, nguyên chính ủy Trung đoàn Thủ đô, người có mặt đêm 30 Tết năm Đinh Hợi tại biệt thự Anh Hoa tiếp các lãnh sự quán Anh, Pháp, Mỹ, Tưởng
Chợt liên tưởng tới cành đào trong Xuân lửa Thăng Long năm 1789 mà Nguyễn Huệ cho mang về Phú Xuân báo tin thắng trận với vợ yêu - công chúa Ngọc Hân. Hai cành đào Xuân đều là biểu tượng của của truyền thống văn hiến Đại Việt - Thăng Long. Cho dù vẫn còn mắc nợ chưa tìm ra và có thể sẽ không tìm được người mang cành đào Xuân Đinh Hợi 1947, nhưng tôi lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chất anh hùng, hào hoa của người Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Ths. Phạm Kim Thanh
* Biệt thự Anh Hoa ở đầu phố Ngõ Gạch là ngôi nhà cổ của cụ lang Ngô Lê Cách. Biệt thự có cửa thông sang Hàng Chiếu và 11 Hàng Đường. Ngôi nhà vốn là cơ sở của Xứ ủy Bắc kỳ những năm 1936-1939. Những ngày Liên khu I kháng chiến, cụ cho cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 101 khu Đồng Xuân dùng căn phòng phía thông sang Hàng Thiếc làm nơi cứu thương. Cụ là cha của đồng chí Ngô Lê Động, một sáng lập viên của Hội Văn hóa Cứu quốc, Chính trị viên đại đội của khu Đồng Xuân trong 60 ngày Liên khu I kháng chiến. Đồng chí hy sinh anh dũng ngày 14-2-1947 trong trận chiến đấu tại khu Đồng Xuân.