Chùa Báo Ân qua kết quả khai quật khảo cổ học
Kết quả khảo sát hiện trạng di tích đã giúp cho các nhà khảo cổ học xác định vị trí tập trung nghiên cứu và khai quật là gò đất nằm ở phía Tây ngôi chùa hiện tại và khu vực phụ cận (khu vườn chùa và khu dân cư). Qua ba đợt khai quật nhiều hố đào đã được mở ở nhiều vị trí khác khau, với tổng diện tích khoảng trên hơn 600m2 (chiếm một phần rất nhỏ trên tổng diện tích di chỉ).

Toàn cảnh khai quật di tích chùa Báo Ân.

Sơ đồ mặt bằng, vị trí các hố khai quật 3 đợt di tích chùa Báo Ân.
Kết cấu địa tầng các hố thám sát khá thống nhất với
Lớp văn hóa được tìm thấy phân bố từ dưới (ở độ sâu 2m) lên trên tương ứng với 3 lớp kiến trúc từ thời Trần (thế kỷ 13-14), thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-18) đến thời Nguyễn (thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20). Các kiến trúc sớm đều bị kiến trúc thời sau phá hủy khi tận dụng lại mặt bằng, đặc biệt kiến trúc thời Trần bị phá hủy nặng nề vào thời Lê Trung Hưng. Trong mỗi lớp kiến trúc của các thời kỳ, bên cạnh dấu tích nền, móng, gia cố chân tảng là các vật liệu và trang trí kiến trúc đi kèm cùng với các dấu tích phản ánh sinh hoạt (gốm, sứ, sành, than tro, lò nung).
Các dấu vết kiến trúc
Dấu tích nền móng của lớp kiến trúc thời Nguyễn (cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20) gần như xuất lộ trên bề mặt đã bị huỷ hoại nặng nề do lấy đất làm gạch.


Phế tích kiến trúc thời Nguyễn.
Trong các hố khai quật đều thề hiện rõ 2 lớp kiến trúc có niên đại Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-18) và thời Trần (thế kỷ 13 - đầu 14).
Lớp móng thời Lê Trung Hưng nằm ở độ sâu trung bình 1 m so với mặt bằng hiện tại. Móng kết cấu gồm một hàng gạch xếp đứng, khóa hàng gạch lát phía trong. Giữa hàng gạch lát và gạch khóa có một rãnh nhỏ rộng 5-7cm. Móng được xếp khít, không sử dụng chất kết dính. Gạch hình chữ nhật có kích thước 30x12x5,5cm. Kiều kết cấu móng này đã gặp trong một số di tích thời Lê, rõ nhất là khu di tích Lam Kinh (Thanh Hoá) và Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội). Ngoài móng, cũng tìm thấy những mảng nền sử dụng loại gạch vuông, lát chéo đặc trưng thời Lê Trung Hưng (Nguyễn Văn Đoàn 2004).

Dấu vết kiến trúc thời Lê Trung Hưng.


Bó móng, gia cố chân cột thời Lê Trung Hưng.
Hiện nay còn chưa thề phục dựng được mặt bằng và quy mô kiến trúc, nhưng dựa vào vết tích móng dài 5,5m ở hố 3 năm 2002 và một vệt móng dài 5m ở hố 2 năm 2003 nằm ở phía Tây, có thề thấy kiến trúc thời Lê Trung Hưng khi được xây dựng trên cơ bản nằm đè lên lớp móng thời Trần phía dưới, có xu hướng dịch chuyền về phía trước (phía Nam). Điềm đặc biệt lý thú là việc đã phát hiện được các dấu tích nền, móng cùng gia cố chân tảng và một số lượng phong phú các loại vật liệu trang trí kiến trúc thời Trần nằm ở độ sâu từ 1,2-1,8m.
Nền tìm thấy còn khá nguyên vẹn với những mảng nền sử dụng gạch vuông, xếp thẳng, liền khít mạch. Gạch màu đỏ tươi, vuông thành sắc cạnh với kích thước khá đồng nhất trong khoảng 38,5x37,7x4,5cm, không trang trí hoa văn. Trong số đó chi thấy duy nhất 1 viên gạch trang trí hoa cúc dây rất tinh xảo mang đặc trưng thời Trần nằm trên bề mặt nền. Hiện tượng ấy cho phép dự đoán nền thời Trần, gạch không trang trí hoa văn, những viên gạch có trang trí hoa văn được sử dựng ở các vị trí khác quan trọng và có ý nghĩa hơn (?).
Trong kỹ thuật lát nền, giới hạn của nền thường sử dụng hàng gạch chữ nhật xếp đứng có tác dụng khóa ở hàng gạch ngoài cùng và các góc. Những mảng nền tìm thấy nêu trên cho thấy nhiều khả năng là bộ phận liên quan đến sân chính của chùa Báo Ân, ít khả năng là nền nhà.


Móng và nền kiến trúc thời Trần.
Móng thời Trần sử dụng gạch chữ nhật so le có màu đỏ tươi, kích thước 32x14x4cm và 38x19,4x3,5cm, không dùng chất kết dính, tương tự như cách xếp móng của thời Lê như đã miêu tả, song mạch nhỏ và liền khít. Những đoạn móng tìm thấy khá nhiều, đều ở tình trạng bị chặt phá, trong đó đoạn móng phía Đông là nguyên vẹn nhất, cao còn lại 0,8m với hàng chục hàng gạch xếp chồng khít và dài tới hơn 12m, ở 2 đầu đã bị chặt phá. Nhiều khả năng đây chính là bó móng phía Đông của kiến trúc chính, vì bên trong đã tìm thấy các gia cố nền và hệ thống gia cố chân tảng.
Đáng chú ý về kỹ thuật xử lý móng, ở phía dưới đáy của móng đều được xếp thêm một hàng gạch nghiêng ở phía ngoài đề gia cố. Nhìn chung, lớp móng thời Trần đã bị giai đoạn sau phá huỷ nặng nề. Chúng tôi cũng ghi nhận thấy hiện tượng bóc dỡ và tái sử dụng vật liệu thời Trần ở những thời sau, đặc biệt là thời Lê Trung Hưng.
Tuy chưa tìm được toàn bộ các cạnh của móng, nhưng đã phát hiện được hai góc của mặt bằng kiến trúc, cho phép chúng tôi đoán định kiến trúc có hướng quay phía Tây, nhìn ra sông Thiên Đức. Trong lòng kiến trúc không còn chân tảng nhưng vẫn nhận ra được dấu vết gia cố bằng ngói và gạch đập nhỏ. Những vết gia cố này cho phép nghiên cứu các bước gian của kiến trúc chùa thời Trần, với độ rộng khoảng 2,9m và 1,5m.
Gia cố chân tảng tìm thấy trong hố đào đều đã bị san bạt, chi còn phần gần đáy với hình dáng không ổn định có hình chữ nhật hoặc gần vuông, với kích thước mỗi cạnh là 0,8 và 0,6m, còn từ 2 đến 3 lớp phế liệu kiến trúc lèn chặt cùng đất sét (Hình 3). Căn cứ vào các hàng chân tảng và giới hạn các đường bó móng, đặc biệt là móng phía Đông chúng tôi cho rằng đây chính là những gì còn lại của kiến trúc quan trọng nhất (‘Chùa Cả’ - như cách gọi của dân trong vùng) của ngôi chùa Báo Ân xưa. Những dữ liệu khảo cổ học cho thấy kiến trúc ban đầu có 5 gian 2 chái, hướng về phía Nam, liền kề với dòng Thiên Đức nổi tiếng.


Phế tích bó móng, nền sân và ống nước thời Trần.
Bó hiên tìm thấy nằm ở phía ngoài của bó móng phía Đông nêu trên, rộng 1,2m, dài còn lại 4,5m, cấu tạo hai cấp với 2 hàng gạch chữ nhật kép xếp đứng ở hai bên, ở giữa là 2 hàng gạch vuông xếp thẳng. Bó hiên cũng bị phá hủy ở hai đầu.
Ngoài nền, móng, bó hiên, gia cố chân tảng kiến trúc thời Trần, còn thấy rất nhiều hệ thống ống dẫn nước khá nguyên vẹn chạy ngang dọc và ở các cấp khác nhau trong hố đào. Ống nước được xếp thẳng và liên kết với nhau bằng các đoạn ống đất nung hình trụ, dài trung bình 20cm, đường kính từ 14-15cm. Có những đoạn ống, một đầu được dẫn vào một “hố ga” hình vuông bó bằng gạch bìa. Kiều ống dẫn nước này đã từng thấy xuất hiện ở nhiều di tích thời Lý-Trần (Hoàng thành Thăng Long, đền chùa Bà Tấm, di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc) (Nguyễn Văn Đoàn và nnk 2001). Hệ thống cống đó là bằng chứng cho thấy, vào thời Trần, các kiến trúc sư khi thiết kế và xây dựng rất lưu ý đến việc cấp thoát nước và vệ sinh môi trường.


Phế tích nền móng gia cố chân tảng, phế tích kiến trúc thời Trần.


Cống thoát nước thời Trần.
Cùng với những dấu tích kiến trúc trên, chúng tôi còn thấy một mảng gia cố bằng gạch và ngói, được xếp thành hình tròn, có đường kính khoảng hơn 3m. Mảng gia cố đó được ken chặt bằng gạch thẻ và ngói mũi hài theo kiều nêm cối. Kết cấu, kỹ thuật và vật liệu của gia cố này giống hệt gia cố con đường đi ở di tích Hoàng thành Thăng Long. Sự khác biệt là các di tích ở Hoàng thành Thăng Long các vệt ngói được ken thành đường thẳng hoặc khum, nhưng ở di tích Báo Ân lại được xếp thành hình tròn. Đã có nhà nghiên cứu giả thiết đó là đường chạy đàn, nhưng chúng tôi còn ngờ vì quy mô quá nhỏ khi đường kính chưa đầy 2m (Ngô Thế Phong, Nguyễn Văn Đoàn 2004).


Gia cố hình nêm cối thời Trần.

Phế tích nền móng gia cố chân cột trong hố khai quật.

Nền lát, bó nền, gia cỗ chân cột thời Trần.

Bó nền, gia cố chân cột thời Trần.
Di vật
Sưu tập di vật tìm thấy trong các hố khai quật chủ yếu là vật liệu kiến trúc và đồ gốm có men. Chúng có niên đại kéo dài từ thế kỷ 13-19 phản ánh sinh động quá trình tồn tại của di tích, nhưng tập trung nhất là các di vật thời Trần. Những hiện vật đặc biệt nhất phải kề tới đầu rồng trang trí và mảnh bệ tháp có thề tích khối khá lớn, phản ánh sự to lớn của công trình. Ngoài ra còn thấy một số mảnh loại tượng Phật bằng đồng nhỏ, trong đó có đầu tượng Phật thếp vàng.

Đầu tượng Phật thếp vàng.
Các vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc thời Trần chủ yếu bằng đất nung, được làm từ loại đất sét được lọc kỹ, màu đỏ tươi. Các loại gạch lát nền đều có hình vuông, có viên được trang trí hoa cúc dây rất đẹp và rất điền hình thời Trần. Loại gạch thẻ và gạch chữ nhật có ghi niên đại “Hưng Long thập nhị niên” (1304) hoặc nhiều hơn là “Vĩnh Ninh Tràng”.

Gạch chữ nhật in chữ Hán “Vĩnh Ninh Tràng”.
Ngói gồm các loại mũi sen đơn hoặc kép, ngói ống đề mộc hoặc tráng men lưu ly, ngói bản. Những loại ngói mũi hài và ngói ống có gắn các tượng uyên ương và lá đề trang trí hình rồng, phượng, tiên nữ, cánh sen được chế tác rất tinh xảo. Đáng lưu ý trong nhóm này là những hiện vật nguyên vẹn, đường nét chạm khắc đặc biệt tinh xảo.

Các kiểu ngói mũi hài.
Hiện vật thứ nhất là viên gạch ốp chạm hình hai tiên nữ đang múa với các dải lụa quấn quanh mình trong hai khung chữ nhật (dài 32cm, rộng 25cm, dày 7-12cm). Hai tiên nữ đang múa trong tư thế một chân co, mặt ngửa lên gối vào vai, khuôn mặt dài với mắt to mũi cao thanh tú. Hai tay giang rộng cánh tay dựng lên, hai bàn tay ngửa ra, xung quanh người, trên vai buông xuống những dải lụa mềm mại Mặt sau của khối bệ có hai ô lõm. Có thề đây là các ô hộc và ngõng kỹ thuật đề khớp nối vài các bộ phận khác của kiến trúc.

Gạch ốp trang trí tiên nữ múa thời Trần.
Hiện vật thứ hai là một hình lá đề chạm tiên cưỡi mây, tay đang kéo đàn, đề tài thường gặp trong điêu khắc thời Trần, nhưng lần đầu thấy bố cục trên lá đề, phản ánh rõ tính chất tôn giáo của di tích (khác biệt với hành cung, phủ đệ). Hình tiên nữ tay cầm đàn dây kéo đặt lên đùi, một tay cầm cò, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, đầu đội mũ có các trang trí hình đao lửa. Tiên nữ trong tư thế ngồi hai chân quặt ra đằng sau, hai cánh tay đề trần trên vai buôngxuống hai dải lụa. Trang trí được đặt trong khung nổi hình lá xung quanh trang trí bằng các đao lửa.

Gạch hình lá đề trang trí nhạc công thời Trần.
Ngoài ra trong sưu tập vật liệu trang trí kiến trúc thu được ở di tích chùa Báo Ân còn thấy nhiều mảnh trang trí với những mô-típ rồng, phượng và hoa lá thiêng mang đậm chất Phật giáo ít thấy trên các di vật đất nung thời Trần Vật liệu kiến trúc bằng đá đều là các chân tảng kê cột, sử dụng đá vôi và sa thạch màu xám xanh. Các chân tảng có kích thước và cấu tạo khá đặc trưng thời Trần với loại có trang trí cánh sen 1 và 2 lớp và loại có núm nổi đề trơn.

Đầu rồng, trang trí kiến trúc thời Trần.

Đầu rồng, sau khi phục chế.
Đồ gốm tìm được không còn nguyên vẹn, nhưng qua mảnh vỡ thấy chủ yếu là đồ gia dụng và đồ thờ tự như: bát, đĩa, âu, chân đèn, lư hương. Những đồ gốm sinh hoạt được phủ men trắng ngà, men ngọc được trang trí hoa dây khắc chìm (ám hoạ). Đồ gốm hoa nâu và men nâu chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra còn thấy loại men lam gi sắt, mà một số nhà nghiên cứu gọi là men tiền lam. Bên cạnh loại gốm men còn thu được một số lượng đáng kề đồ đựng bằng sành thời Trần gồm bình, vại, ang nông lòng. Trong sưu tập hiện vật tìm được, tỷ lệ hiện vật thời Trần chiếm số lượng tuyệt đối, hiện vật thời Lê và Nguyễn có số lượng khiêm tốn hơn.


Âu gốm men ngọc thời Trần.


Đĩa gốm men nâu thời Trần.
Chùa Báo Ân - trung tâm Phật giáo thời Trần vùng ngoại vi Thăng Long
Qua ba mùa khai quật, qua diễn biến địa tầng, di tích và di vật là những chứng cứ vật chất khách quan đề chúng ta có thề khẳng định sự tồn tại của ngôi chùa Báo Ân như ghi chép của sử sách và truyền thuyết dân gian. Các lớp kiến trúc được làm xuất lộ cho biết ngôi chùa được xây dựng có qui mô to lớn vào thời Trần, sang thời Lê Trung Hưng được tu bổ và xây dựng lại trên cơ bản nền chùa cũ nhưng có xu hướng tiến về phía Nam.
Trong các dấu tích được phát hiện đáng chú ý nhất là các dấu tích nền móng, hệ thống cấp thoát nước, cùng các vật liệu và trang trí kiến trúc có niên đại thời Trần. Việc nghiên cứu và tìm hiểu về các dấu tích kiến trúc đó đã đem lại những nhận thức mới về nghệ thuật kiến trúc Phật giáo thời Trần. Các tài liệu về lịch sử Phật giáo đều cho biết chùa Báo Ân liên quan mật thiết đến Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Tên Báo Ân có nghĩa báo đáp lại 4 ân đức lớn của cha - mẹ, của chúng sinh, của vua và Tam bảo (Phật-Pháp-Tăng), một cái tên mang đậm tinh thần và triết lý của Phật giáo thiền.
Những chi tiết trên đây cho thấy chùa Báo Ân khi ấy hẳn có quy mô rất lớn và hết sức gắn bó với cuộc đời của vua Trần Nhân Tông, một trong những vị vua đề lại nhiều công tích lớn cả trong chính trị và ngoại giao, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến lớn chống quân xâm lược Mông Nguyên vào những năm 1285 và 1287. Trong Tam tổ thựclụccòn ghi năm Hưng Long thứ 21 (1313) sư Pháp Loa đã cho xây dựng lại chùa Báo Ân, mọi phí tổn về vật liệu, thợ thuyền và tiền công đều do nhà nước chu cấp.
Các kết quả nghiên cứu nêu trên cho thấy rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chùa Báo Ân trong bối cảnh xã hội đương thời. Với vị trí ngay gần kinh đô, gần đường giao thông thủy huyết mạch nối Thăng Long với vùng Đông Bắc, chùa Báo Ân đã được nhà Trần chú trọng xây dựng thành một trung tâm tôn giáo lớn, một cơ sở quan trọng của thiền phái Trúc Lâm. Ngôi chùa này đóng vai trò trung chuyền giữa hai trung tâm lớn là Thăng Long và Yên Tử, góp phần to lớn cho việc điều khiển đất nước và giáo hội của nhà Trần. Với vị thế của mình, chùa Báo Ân, cùng với các trung tâm khác, đã tạo nên một trục không gian tín ngưỡng được nối bằng đường thủy là Thăng Long - Báo Ân - Côn Sơn - Quỳnh Lâm - Yên Tử, chi phối mọi hoạt động văn hóa tín ngưỡng của dân tộc trong một thời kỳ dài của lịch sử (Lê Đình Phụng 2012; Ngô Thế Phong / Nguyễn Văn Đoàn 2004).
TS.Nguyễn Văn Đoàn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Đình Phụng. Chùa Báo Ân (Gia Lâm - Hà Nội) trong hệ thống chùa thiền phái Trúc. KCH 2012 (1): 75-80.
Ngô Thế Phong, Nguyễn Văn Đoàn Tìm lại ngôi chùa Báo Ân thời Trần. Xưa & Nay 203-204: 57-61.
Ngô Thì Nhậm. Trúc Lâm tông chi nguyên thanh. Hà Nội, 1982.
Nguyễn Văn Đoàn. Ghi chú về một nhóm vật liệu kiến trúc ở di tích Lam Kinh. Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật 2002 (3): 39-42.
Nguyễn Văn Đoàn. Hệ thống vật liệu kiến trúc ở di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), KCH 2004 (6): 80-112.
Nguyễn Văn Đoàn, Nguyễn Tuấn Lâm, Nguyễn Quốc Hữu. Báo cáo thám sát và khai quật khảo cổ học di tích Kiếp Bạc năm 2000. Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, Hà Nội
Trúc Lâm Tam Tổ. Tam tổ thực lục (Tài liệu dịch). Tư liệu Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1962
Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Văn Đoàn, Lê Văn Chiến. Báo cáo khai quật di tích chùa Báo Ân lần thứ nhất năm 2002. Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, Hà Nội