Thứ Hai, 17/03/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

27/01/2018 23:24 2352
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Nhớ ngày mồng bảy tháng Ba Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy

Cũng như chùa Trấn Quốc và chùa Một Cột, chùa Láng được xây dựng từ thời Lý và là niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ của bản sắc văn hoá Việt sau 1000 năm Bắc thuộc. Cho đến  nay, chùa Láng vẫn là danh lam nổi tiếng của Thủ đô Hà Nội.

Phong cảnh chùa Láng xưa.

Nằm trên thế đất rộng và đẹp của phường Toán Viên thời Lý (nay là phường Láng Thượng quận Đống Đa, Hà Nội), chùa Láng có tên là Chiêu thiền tự, thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông. Theo sách Thiền uyển tập anh, Từ Đạo Hạnh là vị Thánh tổ thứ XII của dòng thiền phái Tỳ ni đa lưu chi (dòng này vào Việt Nam từ thế kỷ VI ở chùa Dâu). Ông sang Ấn Độ tu luyện, học được nhiều phép lạ, sau về tu tại chùa Thiên Phúc núi Sài Sơn và hoá tại đó.Vì vậy, chùa Láng và chùa Thầy có mối quan hệ mật thiết, thể hiện trên các câu đối trong chùa và cả trong ca dao dân gian về lễ hội ở hai vùng:

Nhớ ngày mồng bảy tháng Ba

Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy.

Tương truyền, vua Lý Anh Tông (1138-1175) đã cho xây chùa Láng để thờ vua cha là Lý Thần Tông và tiền thân của ông-thiền sư Từ Đạo Hạnh.  Đến thời Lê, tiến sĩ Nguyễn Văn Trạc theo lệnh vua soạn văn bia năm 1656 . Ông ca ngợi chùa Láng là “Danh lam bậc nhất thế gian, không chùa nào sánh nổi. Khí tốt phượng thành bên hữu toả khắp, dòng Tô Lịch bên tả lượn vòng”. Trải mười thế kỷ, bao nắng mưa và khói lửa giặc bắc phương đốt cháy kinh thành Thăng Long, đến nay, chùa Láng vẫn giữ được những hiện vật quý giá thế kỷ XVIII, 13 tấm bia đá, 30 bức hoành phi, 31 câu đối, gần 200 pho tượng, 11 đạo sắc phong của các triều Lê-Tây Sơn-Nguyễn phong thần cho Từ Đạo Hạnh.

Qua phố Chùa Láng nhộn nhịp, bước chân qua Tam quan, khách hành hương vào miền tâm linh. Mỹ cảm hướng thiện hài hoà với kiến trúc nghệ thuật thời hậu Lê trong tổng thể thoáng đãng của nhà bát giác, phương đình, tiền đường, trung đường, nhà bia, lầu treo chuông khánh và các gian chùa chính được xây theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Đặc biệt, trong hậu điện, ngoài tượng Phật còn có tượng Từ Đạo Hạnh tạc bằng gỗ ở phía  trước, phía sau là tượng vua Lý Thần Tông.

Tam quan chùa Láng.

Hằng năm, dân lấy ngày Từ Đạo Hạnh hoá ở chùa Thầy, mồng 7 tháng Ba để mở hội. Dân 9 làng ở phía tây kinh thành Thăng Long đổ về chùa Láng dự lễ hội. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi: “Hàng năm, mùa xuân, cứ đến ngày 7 tháng ba, dân chúng tụ tập ở chùa, là hội vui nhất vùng”. Từ mồng 6/3, dân làng Láng đã làm lễ mộc dục. Mồng 7/3 vào chính hội. Đám rước của 7 làng thuộc Tổng Hạ và làng Thượng Đình, làng Thượng Yên Quyết dài đến một cây số đến cầu Yên Quyết thì dừng lại - gọi là “độ hà”- cả đoàn không được đi trên cầu mà phải lội qua sông Tô* nhưng trai tráng khênh kiệu vẫn phải giữ kiệu cho thăng bằng. Lên bờ bên kia, kiệu Thánh được múa rồng chào đón rồi rước tiếp lên chùa Hoa Lăng ở làng Thượng Yên Quyết (Cầu Giấy), nơi thờ Thánh Mẫu Tằng Thị Loan - thân Mẫu của Từ Đạo Hạnh. Cứ theo lời các cụ kể lại, đám rước xưa đông vui lắm, cờ phướn rợp trời, lọng tía, tàn vàng rực rỡ, một dải sông Tô rộn rã tiếng trống, tiếng nhạc thanh la, tiếng trống của phường bát âm, người đi hội và xem hội chật như nêm. Đến trước chùa Hoa Lăng, chỉ có kiệu Thánh và kiệu Long đình mới được vào sân hạ trước bái đường. Dân các làng lần lượt vào bái lễ. Sau đó, ông lệnh đưa chuỗi tràng hạt từ kiệu đình vào hậu cung cáo Phật rồi quàng vào kiệu Thánh, biểu hiện Từ Đạo Hạnh đã đắc đạo. Đến giờ Ngọ, đoàn rước  trở về chùa Láng. Ngày 8/5, các vị chức sắc làng Láng và phụ lão tế trong chùa. Đây là nét đặc sắc của lễ hội Láng vì Từ Đạo Hạnh vừa là Phật vừa hóa thành Thánh. Ngày 15/3, các cụ làm lễ tạ, lễ giải triều phục, mặc áo cà sa nhà Phật. Sau nghi lễ là hội chơi các trò vui dân gian: chọi gà, cờ bỏi, thi thổi cơm.

 Lễ khai hội chùa Láng năm 2011.

Lễ hội chùa Láng năm 2015.

Sau bao năm chiến tranh gian khổvà đời sống gieo neo, lễ hội chùa Láng đã được khôi phục, bản sắc văn hoá dân tộc như mạch nguồn không bao giờ cạn, đã được thăng hoa trong lễ hội dân gian.     

Ths. Phạm Kim Thanh

* Theo thần tích, cha của Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh bị pháp sư Đại Diên đánh chết, vứt xác xuống sông Tô, trôi đến cầu Yên Quyết thì dừng lại. Vì vậy, khi rước qua sông Tô, không được khiêng kiệu đi trên cầu mà phải lội dưới sông, nên gọi là “độ hà”

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 7178

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Nguồn trí thức yêu nước từ cáctrường Pháp – Việt lực lượng quan trọng cho phong trào cách mạng tháng Tám 1945.

Nguồn trí thức yêu nước từ cáctrường Pháp – Việt lực lượng quan trọng cho phong trào cách mạng tháng Tám 1945.

  • 27/01/2018 23:24
  • 2184

Kể từ khi những trường học Pháp – Việt sơ khai bắt đầu được tổ chức (1885) đến năm 1945, giáo dục Pháp – Việt đã trải qua một quá trình 60 năm hình thành và phát triển. Trong thời gian đó, giáo dục Pháp – Việt dần trở thành một thiết chế giáo dục quan trọng bậc nhất trong việc đào tạo các trí thức Việt Nam kiểu mới. Đây là lực lượng có vai trò rất quan trọng trong phong trào giành độc lập dân tộc mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Tám 1945.