Xã Đan Phượng (huyện Đan Phượng - Hà Nội) vốn được chia làm 4 thôn ở 4 hướng. Một thôn đã sáp nhập vào thị trấn. Ba thôn còn lại gồm Đại Phùng, Đông Khê và Đoài Khê. Lọt thỏm trong ngôi đình làng hoặc dưới những gốc cây già cỗi, giếng cổ do chính tay các nghệ nhân Chăm xưa đục đẽo vẫn còn nguyên vẹn. Trong một xã nhỏ ấy, không phải chỉ 1 giếng quý, mà có đến 3 cái giếng cổ khác nhau.
Xã Đan Phượng (huyện Đan Phượng - Hà Nội) vốn được chia làm 4 thôn ở 4 hướng. Một thôn đã sáp nhập vào thị trấn. Ba thôn còn lại gồm Đại Phùng, Đông Khê và Đoài Khê. Lọt thỏm trong ngôi đình làng hoặc dưới những gốc cây già cỗi, giếng cổ do chính tay các nghệ nhân Chăm xưa đục đẽo vẫn còn nguyên vẹn. Trong một xã nhỏ ấy, không phải chỉ 1 giếng quý, mà có đến 3 cái giếng cổ khác nhau.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 3 giếng cổ Đông Khê, Đoài Khê và Đại Phùng. Kết quả cho thấy, đó là những giếng cổ theo phong cách Chăm pa rõ nét, hiện rất cần được bảo vệ.
Giếng Đại Phùng: Múc cả ngày cũng không vơi
Giếng Đại Phùng ở vị trí ngay đầu hồi bên phải của đình Đại Phùng. Theo ông Bùi Vinh Thủy, thủ từ đình Đại Phùng, ngôi đình này có niên đại đầu thế kỷ 17 và đã được Nhà nước công nhận là Di tích văn hóa lịch sử năm 1990. Dỡ tấm phên bằng tôn che chắn cho giếng, ông Thủy chỉ tay xuống đáy bảo rằng, mực nước giếng này không bao giờ thay đổi, dù có múc cả ngày thì nước giếng vẫn cứ ở mực ấy.
Giếng cổ Đại Phùng
Giếng Đại Phùng hơi khác lạ so với nhiều giếng cổ khác. Giếng này không làm phần chân đế mà được vạt thẳng xuống. Toàn bộ cổ giếng nằm lộ hoàn toàn trên mặt đất có bề cao 55cm và dày 13,5cm. Giếng hình tròn, đường kính tính đến mép ngoài là 130cm, đường kính trong 83cm. Dưới cổ giếng có một phần xây gạch trát xi măng cao 70cm, đây là độ cao tôn cổ giếng lên vào năm 2010. Dưới phần xi măng là những viên đá ong xây lòng giếng ban đầu chạy dài xuống đáy. Đặc biệt, ở giếng cổ này, ở mặt trong trên miệng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau để tránh việc nứt vỡ cổ giếng. Nước giếng vẫn rất trong và sạch, có thể dùng pha trà hoặc đồ xôi.
Đây là một trong số những giếng cổ có chất liệu và kỹ thuật xây khá đặc biệt tại vùng châu thổ Bắc bộ. Kiểu cổ giếng làm từ đá xanh nguyên khối thì chúng tôi đã thấy ở nhiều nơi của Hà Nội như ở Nhổn, trong Nhà thờ lớn, chùa Bối Khê… Còn cổ giếng bằng đá ong nguyên khối thì hiếm gặp hơn. Đan Phượng là một trong những vùng có những cụm cư dân Chăm pa định cư sau những lần Nam tiến của các triều đại quân chủ Đại Việt. Chúng tôi đã có những khảo sát về vùng đất này và thấy nơi đây có nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Chăm pa, nhất là việc đào giếng lấy nước sạch. Người Chăm pa có trình độ làm giếng xếp gạch hoặc đá rất giỏi, đặc biệt, họ là bậc thầy trong khu vực Đông Nam Á về kỹ thuật xử lý chất liệu đá ong. Chúng tôi cho rằng, những giếng cổ ở đây chưa chắc đã do người Chăm pa làm, nhưng sự ảnh hưởng về kỹ thuật của người Chăm là khá rõ nét.
Ông Thủy lần giở những ghi chép xưa, mới rõ giếng ấy không phải do thợ địa phương hay người Bắc làm. Giếng được tạo tác do bàn tay khéo léo của những người thợ Chăm. Thế nên, có người còn gọi đây là giếng Chăm. Tuy nhiên, cũng có người thắc mắc là vùng Đan Phượng không có đá ong, nhưng giếng Đại Phùng lại là đá ong già tuổi. Theo nghiên cứu của chúng tôi, người xưa đã vận chuyển đá ong từ Thạch Thất theo đường thủy sông Đáy về để làm giếng.
Giếng Đông Khê: Bí ẩn tuổi thật
Cách giếng Đại Phùng không xa là giếng cổ Đông Khê. Giếng nằm sát bên con đường làng và được bao bọc bởi hàng rào sắt hình bát giác. Giếng làm bằng đá xanh nguyên khối được khoét đục khá cầu kỳ theo kiểu chậu úp. Cổ giếng cao 78cm, phần thành giếng cao 40cm, chân cao 38cm. Sát chân cổ giếng có 2 lượt đá xanh, tạo thành thềm giếng hình tròn. Lòng giếng gồm những thanh đá có mặt cắt hình chữ nhật, được chế tác hơi cong để tạo hình tròn cho giếng, xếp so le nhau xuống tận đáy giếng. Theo đo đạc và phân tích của chúng tôi thì các thanh đá này dài ngắn không đều nhau nhưng có độ dày đồng nhất 18cm. Những thanh đá này tạo thành lòng giếng vững chắc và có tác dụng như một bộ lọc nước. Bên trong phía trên miệng giếng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau, song song chạy dọc xuống, có mặt cắt hình chữ V. Đây là kỹ thuật làm cho cổ giếng bền vững không bị nứt vỡ trong điều kiện thời tiết thay đổi.
Giếng cổ Đông Khê
Mặt trong, trên miệng cổ giếng, người xưa đã đục những rãnh nhỏ liền nhau, song song chạy dọc xuống nhằm làm cho cổ giếng không bị nứt vỡ do vật liệu đá co ngót hay giãn nở trong điều kiện thời tiết thay đổi. Mới đây, khi tiến hành nạo vét, người ta đã phát hiện ra dưới đáy giếng có một khối đá to tròn, liền khối. Theo ông Nguyễn Văn Hà, Trưởng ban Công tác mặt trận thôn Đông Khê, khối đá này giúp các thanh đá bên trên lún đều. Đây là một kỹ thuật rất đặc biệt. Hiện tại, nước giếng vẫn rất trong, chất lượng nước tốt. Cũng theo ông Nguyễn Văn Hà, giếng cổ này được xây ít nhất từ thế kỷ thứ XII. Cách đây không lâu, các nhà khoa học trung ương đã về khảo sát cây đại ở xóm Ngõ Giữa, thôn Đông Khê và cho biết, cây đại có niên đại tới 900 năm. Vậy mà các vị cao niên truyền lại là giếng còn có trước cây đại.
Giếng Đoài Khê: Dấu tích lập làng
Giếng thôn Đoài Khê nằm ở phía tây xã Đan Phượng. Giếng nằm cách cổng làng khoảng chục thước ta. Hai bên cổng, người ta gắn đôi câu đối: “Đoài Khê hương sắc vạn thuở giữ tinh hoa/Giếng cổ mát trong ngàn năm lưu dấu tích”. Toàn bộ giếng cổ Đoài Khê được làm từ một khối đá ong liền mạch. Thềm giếng hình tròn, lát bằng loại gạch thẻ có độ cứng cao. Giếng có đường kính ngoài 130cm, đường kính trong 90cm. Trong lòng, ngay dưới phần cổ giếng có một lượt gạch thẻ xếp lóng dọc, tiếp xuống là một lượt gạch thẻ xếp lóng ngang. Hai lượt gạch thẻ này chính là kết quả của một đợt trùng tu để nâng cổ giếng lên, đồng thời lát thềm giếng. Căn cứ vào loại gạch, có thể suy đoán đợt trùng tu này được thực hiện vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Dưới các lớp gạch thẻ là những viên đá ong được xếp so le liền khít xuống tận đáy giếng. Chất lượng nước giếng này rất tốt, cách đây không lâu, khi chưa có hệ thống nước sạch, dân Đoài Khê đều dùng giếng này. Theo các cụ cao niên trong làng, giếng có thể có từ thế kỷ 18.
Giếng cổ Đoài Khê
Cũng giống như 2 giếng cổ quý của Đại Phùng và Đông Khê, giếng Đoài Khê cũng hằn rõ những vết rãnh do dây gầu kéo nước tạo ra. Miệng giếng đá ong trông giống như răng cưa rất đẹp và bóng. Cụ Nguyễn Văn Hoàn, người xóm giếng bảo rằng, thời xưa nhiều cao nhân về làng lấy nước giếng pha trà. Đến thời thực dân Pháp đô hộ, lính Tây cũng thường từ bốt Phùng vào đây lấy nước về sử dụng. Đúng như câu đối trên cổng làng, nước giếng Đoài Khê mát trong vô cùng. Chỉ hiềm một nỗi, những nền nếp cũ cùng tục uống trà đã phôi pha nên giếng chỉ còn là dấu tích lập làng, lập xóm.
Như vậy, có thể thấy, những giếng cổ trên địa phận xã Đan Phượng rất quý. Ba giếng cổ của Đan Phượng là tương đương tuổi nhau. Có thể khi chia làng, lập xóm, người của 3 làng đã xây giếng để sử dụng chung. Tuy thần phả sắc phong hay sử làng không chép việc này, nhưng nhìn màu sắc, kết cấu có thể dễ dàng nhận thấy những lát cắt đặc trưng của một thời kỳ lịch sử.
Chúng tôi đã có những khảo sát về vùng đất này và thấy có nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Chăm, nhất là việc đào giếng lấy nước sạch. Người Chăm có trình độ làm giếng xếp gạch hoặc đá rất giỏi, có lẽ kiến thức của họ về việc tìm mạch cũng tốt nên bước đầu có thể khẳng định giếng ở Đan Phượng là do nghệ nhân người Chăm thực hiện.
Với tốc độ đô thị hóa hiện nay, nguy cơ những giếng cổ bị xâm hại là đáng kể. Nếu không tích cực tuyên truyền về giá trị của chúng thì trong tương lai không xa, các giếng này sẽ chung số phận với các giếng cổ khác ở các vùng lân cận như Sấu Giá, Dương Liễu, Nhổn…
TS. Nguyễn Tiến Đông