Thứ Năm, 05/12/2024
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

10/09/2018 09:43 6152
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Đi bộ thì khiếp Hải Vân Đi thuyền thì sợ sóng thần hang Dơi

Đi bộ thì khiếp Hải Vân

Đi thuyền thì sợ sóng thần hang Dơi

Hải Vân quan được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826), tọa lạc trên đỉnh đèo Hải Vân (Ải Vân, Ngãi Lãnh, Ải Vân Sơn, Ải Lĩnh…), phía Tây núi Hải Vân, chỗ giáp vai giữa hai ngọn Hải Vân Sơn (phía Đông) và Bà Sơn (phía Tây), ở độ cao 496m so với mặt nước biển, thuộc dãy núi Bạch Mã - Hải Vân nằm trên địa phận thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế) và phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu (Tp. Đà Nẵng), cách trung tâm Tp. Huế khoảng 90km về phía Nam, trung tâm Tp. Đà Nẵng khoảng 28km về phía Bắc.

Toàn cảnh Hải Vân quan

Nhiều thư tịch cổ đã ghi lại vị trí và tầm quan trọng của núi Hải Vân và Hải Vân quan: trong “Dư địa chí” do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, đã nói đến địa danh “Ải Vân”, Dương Văn An đời Mạc trong “Ô châu cận lục” (1555), Hòa thượng Thích Đại Sán trong “Hải ngoại ký sự” (cuối thế kỷXVII), Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục” (cuối thế kỷ XVIII) đều cho biết sự bao la hiểm trở của núi và ải Hải Vân, là một nơi xung yếu trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam và đều có cửa ải, đặt binh canh giữ.Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn và nhiều bản đồ xuất bản dưới thời Nguyễn như Thừa Thiên toàn đồ (1832), Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí đồ (1886 - 1888), Đại Nam nhất thống chí (Duy Tân năm thứ 3 - 1909) đều ghi rõ, chi tiết vị trí của núi Hải Vân và Hải Vân quan.

Trong lịch sử, trước năm 1306, vùng đất có đèo Hải Vân thuộc hai châu Ô, châu Lý của Vương quốc Champa. Sau sự kiện Huyền Trân công chúa nhà Trần lấy vua Chế Mân, đèo Hải Vân trở thành biên giới giữa hai nước Đại Việt và Champa. Năm 1402, nhà Hồ chia vùng đất Chiêm Động và Cổ Lũy thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đèo Hải Vân trở thành ranh giới giữa châu Hóa và lộ Thăng Hoa. Từ năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông thân chinh Champa, đèo Hải Vân được lấy làm ranh giới giữa hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, trở thành một vị trí xung yếu, hết sức quan trọng trên con đường Thiên lý Bắc Nam, là mối quan tâm đặc biệt đối với nhiều triều đại.

Kể từ khi các chúa Nguyễn làm chủ Đàng Trong, đèo Hải Vân đã được coi là vị trí hiểm yếu, có tầm chiến lược hết sức quan trọng. Chúa Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) nhận định đây là “đất yết hầu của vùng Thuận Quảng”. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725), khi đi qua đèo Hải Vân đã cảm tác “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên/Hình thế hỗn như Thục đạo thiên…”miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hiểm trở…của nơi này.Năm 1774, tướng Hoàng Ngũ Phúc của chúa Trịnh đánh chiếm Phú Xuân đã cho đắp một bờ lũy cao chắn ngay đỉnh đèo Hải Vân gọi là Đỉnh Lũy. Vua Quang Trung (1788 - 1792) lấy núi Hải Vân làm nơi hội tụ quân sĩ để tiến đánh quân Trịnh ở Phú Xuân. Đến khi Nguyễn Ánh tiến quân ra Phú Xuân đã sai các tướng lĩnh “đến cửa ải Hải Vân theo chỗ hiểm mà đóng giữ”.

Triều Nguyễn thiết lập, Huế trở thành Kinh đô, đèo Hải Vân và núi Hải Vân ngày càng được coi trọng trong việc bảo vệ phía nam Kinh đô, đây là đài quan sát bao quát toàn bộ khu vực cả ở trên biển và trên đất liền và là yết hầu của đường bộ gần như duy nhất từ phía nam ra Huế, đồng thời khống chế được cả con đường biển đi qua dưới chân núi.Nhận thức được tầm quan trọng của ải Hải Vân, ngay từ thời Gia Long (1802 - 1820), triều đình đã cho đặt 4 dịch trạm tại huyện Phú Lộc và sửa đường lên đèo Hải Vân. Đến thời Minh Mạng (1820 - 1840), để khuyến khích người dân sinh sống ở vùng núi non hiểm trở này, nhà vua đã ban thưởng cho mỗi nhà dân ở đây một lạng bạc và xây đá thành bậc ở những đoạn đường dốc cho dễ đi lại.

Trước khi xây dựng Hải Vân quan, đèo Hải Vân đã được coi là vị trí xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngõ phía Nam của vùng đất này, nhưng chưa có công trình kiến trúc nào có tầm quan trọng và qui mô to lớn, vững chắc... được thực hiện tại nơi được đánh giá là một vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Kinh đô Huế. Các đồn binh, trạm gác được bố trí trước thời điểm 1826 có qui mô nhỏ bé, đơn lẻ… không quá chú trọng về mặt quân sự như phòng thủ, bảo vệ đèo và đường trạm. Cho đến đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân - Huế trở thành Kinh đô, đèo Hải Vân càng trở nên quan trọng, là cửa ngõ đi vào vùng kinh kỳ, cần phải tăng cường phòng ngự. Vì thế, tháng Hai năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng xuống chỉ cho xây một cửa quan ở đỉnh đèo Hải Vân, cửa trước viết ba chữ Hải Vân Quan, cửa sau viết sáu chữ Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan, hai bên tả hữu xếp đá làm tường, trước sau liền nhau.Từ đó, muốn vượt qua ải Hải Vân đều phải qua hai lần cửa xây bằng gạch vồ theo lối vòm cuốn, giống cửa ở kinh thành Huế, nhưng không có vọng lâu, bên trên cửa là sân thượng dùng để quan sát bốn phía, có xây bậc thang lên xuống. Công trình xây dựng trong vài tháng, do phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam cùng thuê dân làm,sau đó triều đình phái biền binh chở súng ống theo viên tấn thủ đóng giữ.Về mặt quản lí và canh phòng Hải Vân quan do chính viên Đề đốc Kinh thành quản lí, dưới quyền quan Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Sau khi xây dựng xong cửa ải, triều đình chuẩn định từ cửa quan trở về Bắc thuộc quản hạt phủ Thừa Thiên, ngoài cửa quan trở về Nam thuộc quản hạt tỉnh Quảng Namvà ban hành các chính sách khuyến khích dân cư đến sinh sống từ chân núi đến đỉnh đèo, đồng thời dựng đền thờ thần núi Hải Vân.

Dụ đỉnh và hình khắc Hải Vân quan

Hải Vân Quan là một thành lũy quân sự quan trọng trên con đường thiên lý Bắc - Nam, năm Minh Mạng thứ 17 khi đúc cửu đỉnh,nhà vua đã cho khắc tượng vào Dụ đỉnh. Các vua nhà Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) đã nhiều lần ra chỉ dụ liên quan đến Hải Vân quan nhằm bảo vệ an toàn cho Kinh đô Huế và dân chúng qua lại để có thể kiểm soát, phòng trừ bất trắc, bảo vệ an toàn mặt phía nam Kinh đô Huế. Tuyến phòng thủ ngày càng được tăng cường củng cố khi Đà Nẵng bị phương Tây nhòm ngó: Tháng 8 năm 1848, vua Tự Đức cho đắp thêm pháo đài ở cửa ải Hải Vân, năm 1849 lại đặt thêm 7 cỗ thần công để phòng thủ cả trên núi cao lẫn ngoài mặt biển.Nằm ở vị trí chiến lược của đèo Hải Vân, Hải Vân Quan là một cơ cấu phòng thủ rất kiên cố, có khả năng đẩy lui các cuộc tấn công và kiểm soát có hiệu quả sự qua lại ở nơi đây. Sau nhiều thế kỷ tồn tại, Hải Vân quan chịu chung số phận với sự suy tàn của triều đình nhà Nguyễn.

Thiên hạ đệ nhất hùng quan

Năm 1876, trước khi người Pháp lập nền Bảo hộ thì cửa ải có 50 lính canh phòng. Năm 1885, sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884), số lính chỉ còn khoảng 5 người. Sang đầu thế kỷ XX, năm 1918, khi H.Cosserat tới Hải Vân quan khảo cứu cửa ải đã bị bỏ hoang không còn ai canh gác. Cuối năm 1946, khi Pháp trở lại xâm lược nước ta đã cải tạo Hải Vân quan thành một cứ điểm với nhiều công sự vững chắc án ngữ trên đỉnh đèo hiểm trở do hai trung đội lính Âu - Phi chiếm giữ. Sau năm 1954, hệ thống nhà ở, đồn bốt, công sự... được quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục sử dụng.

Hiện nay (2018), di tích Hải Vân quan đã có sự biến đổi rất nhiều so với các tư liệu chính sử triều Nguyễn, các tư liệu của người Pháp đầu thế kỷ XX và các nguồn tư liệu khác trong khoảng thời gian 1946 - 1975: Năm 1918, khi H.Cosserat khảo cứu Hải Vân quan (Lũy phòng thủ trên đèo Hải Vân - BAVH, số 2/1921) cho thấy Hải Vân quan tuy bị hoang phế nhưng diện mạo các công trình xây dựng còn tương đối rõ nét về vị trí, quy mô, cấu trúc... nhưng trong giai đoạn 1946 - 1975, Hải Vân quan và Thiên hạ đệ nhất hùng quan đã bị xây thêm phía trên để tăng thêm độ cao của các cổng nhằm mở rộng tầm kiểm soát. Một vài đoạn tường lũy, hệ thống bậc cấp, đường đi nội bộ… đã bị triệt giải, hạ thấp độ cao hoặc xây mới lệch khỏi vị trí nguyên gốc. Các ụ súng thần công, Trú sở và Vũ khố đều bị các dãy nhà binh, nhà trại, kho ngầm, ụ súng... được xây dựng trong thời kỳ quân đội Pháp, Mỹ đồn trú thay thế. Cửa ra vào Thiên hạ đệ nhất hùng quan bị xây bít lại bằng gạch hiện đại và bị đất cát...bồi lấp dày gần 2m. Đường Thiên lý từ phía Nam dẫn lên Hải Vân quan và từ Thiên hạ đệ nhất hùng quan đi Huế cũng bị san ủi, bồi lấp. Bên cạnh đó, xung quanh Hải Vân quan, các đơn vị quân đội Pháp, Mỹ đã xây thêm 5 lô cốt tại các vị trí xung yếu để bảo vệ cứ điểm này.

Sau năm 1975, một số công trình như trạm Viba, đường điện cao thế, đài kỷ niệm Chiến thắng Đồn Nhất...được xây dựng trong khu vực di tích cùng với những công trình do quân đội Pháp, Mỹ xây dựng trước đây đã làm thay đổi hoàn toàn bố cục mặt bằng nguyên gốc của di tích Hải Vân quan.

Nhìn chung, đèo Hải Vân không chỉ là một danh thắng hùng vĩ vào bậc nhất nước ta - “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” - mà còn là nơi chứng kiến bao nhiêu chiến tích oai hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc trong suốt nhiều thế kỷ qua và đặc biệt là những chiến công ở nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1946 - 1975). Di tích Hải vân quan đã được công nhận là Di tích Quốc gia, việc bảo tồn, phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích là hết sức cần thiết nhằm trả lại những giá trị vốn có của nó, góp phần gìn giữ di sản văn hóa của dân tộc, phát triển kinh tế, phục vụ công tác xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.

Hoàng Văn Thưởng

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 6652

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Rồng - Phượng trong nghệ thuật thời Nguyễn

Rồng - Phượng trong nghệ thuật thời Nguyễn

  • 07/09/2018 00:00
  • 10391

Huế là kinh đô cuối cùng của Việt Nam dưới thời quân chủ, được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong (1636-1775), rồi kinh đô của vương triều Tây Sơn (1788-1801), kinh đô của vương triều Nguyễn (1802-1945), vùng đất này đã có quá trình hội tụ, bồi đắp và tỏa sáng khi đóng vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa của Việt Nam suốt giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, Huế giữ vị thế là đầu tàu của nền nghệ thuật dân tộc, cả nghệ thuật cung đình cao sang, quý phái và nghệ thuật dân gian sinh động, phong phú.