| Cho nên nhà vua cố che giấu ý nghĩ không ưa đạo Thiên Chúa cùng những người phương Tây, để họ dốc hết tâm sức xây dựng thành lũy, bày vẽ và huấn luyện quân sự... phục vụ cho công cuộc phục quốc!. Bởi vậy, Nguyễn vương vừa thất vọng vừa chua xót vì không nhận được chút gì từ Chính phủ Pháp mà con trưởng của mình thì bị "Tây hóa" qua hành động như không chịu lạy nơi Thế miếu, theo đạo Thiên Chúa, quá thân thiện với người phương Tây ... Phải chăng vì thế, dù đã lập Nguyễn Phúc Cảnh làm thái tử nhưng vua vẫn ra lệnh cho mẹ Cảnh nhận hoàng tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng) là con thứ tư của mình vào năm 1793 (Nguyễn Phúc Đảm lúc ấy, mới lên 3 tuổi, con bà Thuận Thiên, vợ thứ. ở đây ta đã thấy ý đồ của vua lộ rõ. Nhưng giả sử, thái tử Cảnh không mất sớm thì sẽ có một bi kịch khác chăng?). Năm 22 tuổi, Nguyễn Phúc Cảnh chết vì bệnh "đậu mùa" (Mẹ Cảnh sinh 3 con trai là Nguyễn Phúc Cảnh, Nguyễn Phúc Hy, Nguyễn Phúc Noãn, và tất cả đều mất sớm) bỏ lại người vợ trẻ đẹp tên Tống thị Quyên và 2 con trai là Mỹ Đường (còn có tên là Cán) và Mỹ Thùy (còn có tên là Kính). Sau khi Nguyễn Phúc Cảnh chết, vua Gia Long cứ chần chừ trong việc lập thái tử dù tuổi đã khá cao. Trước khi quyết định người kế vị, nhà vua cũng đã dè dặt hỏi ý kiến các quan lại trong triều thực chất là để thăm dò bụng dạ họ chứ lòng vua đã chọn rồi. Chỉ khổ cho mấy ông quan võ ít học, trực tính như: Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt trả lời thẳng là: Phải lập hoàng tôn (ám chỉ Cán), không được bỏ dòng đích (Có lẽ hai ông này vì không hiểu thâm ý của vua nên sau đó đều gặp họa lớn). Chỉ có Trịnh Hoài Đức, là văn thần trả lời một câu vừa mát bụng cha, vừa mát bụng con: "Hiểu con không ai hơn cha. Đèn nhà ai nấy biết. Xin Bệ hạ cao minh tự định đoạt lấy !". Xét khi ấy, hai con của Nguyễn Phúc Cảnh là Cán và Kính, tức cháu nội vua Gia Long, đã ngoài hai mươi tuổi, đủ sức nối ngôi; lại được trong triều ngoài dân ủng hộ vì đấy là con của người ít nhiều cũng có công gây dựng vương triều, lại là dòng đích rất phù hợp thông lệ truyền ngôi từ xưa ở chốn cung đình. Vậy mà Gia Long vẫn không chọn một trong hai cháu. Gia Long giận ghét con rồi ghét giận luôn các cháu sao? Điều này, cũng có thể vì nhà vua vốn là người "... lấy những chuyện nhỏ nhặt, đem giết hại những người có công với mình ..." (Việt Nam sử lược, trang 424, Trần Trọng Kim). Và sâu xa hơn, chính là vì "sợ rằng tư tưởng của Bá-đa-lộc...cũng sẽ ảnh hưởng đến những đứa con của Hoàng tử Cảnh " ( A. Schreiner trong Abrégé de l'histoire d' Annam, Saigon, 1906). Chỉ riêng việc lập người kế vị của Gia Long có rất nhiều bi kịch. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện ghi chép sự kiện thê thảm này như sau: Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị. Tống thị vì thế bị dìm nước cho chết, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín, đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất. Năm Minh Mạng thứ bảy (1826), Mỹ Thùy lại bị quân lính ở đạo Dực Chẩn kiện, sắp bị đưa cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh mà mất, lúc ấy chưa có con cái gì. Vua cho lấy con trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung, tập phong làm ứng Hòa Hầu để lo việc phụng thờ Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Hoàng tử Cảnh)... Tưởng bi kịch đến đó là hết, nào ngờ đến năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vì sợ con cái của Lệ Chung nhờ cha mà hưởng phúc ấm, nên triều thần lại tiếp tục nghị tội, buộc con trai con gái của Lệ Chung là Lệ Ngân, Thị Văn, Thị Dao đều phải giáng làm thứ nhân. Mãi đến năm Tự Đức thứ hai (1848), khi Mỹ Đường bị bệnh mất, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh mới tạm yên ở phận dân thường! | Luật nay: Muốn kết tội một người, phải mở phiên tòa để xét xử Trong Việt sử giai thoại tập 8, trang 12, NXB Giáo dục, tác giả Nguyễn Khắc Thuần có lời bình đáng suy ngẫm như sau: "Thời ấy, có 2 tội thuộc hàng đại ác không thể tha, ấy là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh (tức Cán) chẳng có biểu hiện gì, vậy thì Minh Mạng muốn được yên vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tột thất đức là thông dâm với mẹ!". Đây là vụ án không có bản án. Nó có tính chất "thanh lý nội bộ " hơn là công khai. Vì nội dung vụ án là chuyện thường luân bại lý, làm điếm nhục gia phong, chẳng tốt đẹp gì để làm to chuyện, phơi bày ra cho bàn dân thiên hạ đàm tiếu... Vụ án Mỹ Đường xảy ra năm 1824, nghĩa là 5 năm sau khi Minh Mạng lên ngôi (ngày nay 5 năm là thời gian để hoàn thành 1 kế hoạch lớn). Vậy thì thời xưa, 5 năm cũng đủ để vua củng cố địa vị một cách vững vàng tuyệt đối. Lẽ thường tình, khi không có dấu hiệu đe dọa, không ai xuống tay nặng nề trong hoàn cảnh tương quan lực lượng như thế, thử hỏi vua Minh Mạng có cần phải làm cái trò nhổ cỏ tận gốc không? Trong vụ án này, người tố cáo là ai, cớ gì không thể nêu tên đối với việc hệ trọng liên quan đến danh dự và quyền lợi của cả một dòng họ? Mỹ Đường, ví dụ có là người nghiện dâm dục đi nữa, nhưng là công hầu, thiếu gì thị nữ bên cạnh, đứa con này có cần thiết phải thông dâm với mẹ ruột không? Còn Tống thị, là một phụ nữ có chức phận, ít nhiều cũng được giáo dục theo khuôn phép và phải sống trong một cung đình xem trọng đạo Nho ở vào thế kỷ XIX, thử hỏi có người mẹ nào đi ăn ở với chính con ruột của mình không? Tất cả những vai chính, phụ trong vở bi kịch trên, giờ đã nằm sâu dưới đáy mồ. Nhưng dưới góc độ pháp luật ngày nay thì vợ của thái tử Cảnh - bà Tống Thị Quyên - không phải chịu hình phạt bị dìm xuống nước cho đến chết. Bà bị một người khác vu cáo vào cái tội đại ác của người xưa: "thông dâm với con ruột" nhưng ngày nay thì các cơ quan tố tụng của pháp luật sẽ không thể xử bà như vậy. Nếu đúng bà có tội thì phải cho điều tra vụ án, phải ghi lại những lời khai của người tố cáo, của nhân chứng... rồi mới xem xét, luận tội. Đằng nay, nhà Vua đã không cần xét xử, vội vã ra lệnh dìm nước giết chết một con người, bất chấp thân phận bà là một vương phi! Qua những nhà nghiên cứu lịch sử, chúng ta chỉ biết người góa phụ bạc phận ấy chết năm 1824 với tội danh đau lòng trên còn nếu bà sinh vào thời đại ngày nay thì bà đâu phải chịu án phạt nghiêm khắc đến như vậy. Pháp luật ngày nay rất công minh, không để ai phải chịu hình phạt oan với tội mà mình không hề gây ra. Tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng Hình sự ghi rõ: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Cũng theo Điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định rõ về việc xác định sự thật của vụ án như sau: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Như vậy, theo luật thời nay, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong vụ án vương phi Tống Thị Quyên và con trai bị khép vào tội đại ác là không công bằng và không đủ sức thuyết phục, pháp luật ngày nay sẽ không đưa vụ án ra xét xử khi chưa đủ chứng cứ để buộc tội. | Tường Linh |