Thứ Năm, 15/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

14/05/2010 08:42 9426
Điểm: 5/5 (2 đánh giá)
Sông Đuống còn có một tên gọi khác là sông Thiên Đức

Sông Đuống là một phân lưu của sông Nhị Hà (sông Hồng), chảy qua địa phận Bắc Ninh và chia tách tỉnh thành hai phần. Phía Nam là các huyện Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài (còn gọi là vùng Dâu). Khi nhà Hán xâm lược nước ta, vùng Dâu được chọn để xây thành Luy Lâu. Đây cũng là trung tâm kinh tế, tôn giáo, chính trị của nước ta thời ấy. Phía Bắc là vùng “khí thiêng của đất chung đúc”(1)-đánh dấu vương triều hưng thịnh của nước Đại Việt ta- triều Lý.

Khi nhà Lý lên ngôi đã đổi châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức, vì vậy sông Đuống còn có một tên gọi khác là sông Thiên Đức (Thiên Đức giang).

Xưa kia, sông Thiên Đức có vị trí rất quan trọng bởi nó vừa làm đường giao thông vừa lấy nước tưới cho đồng ruộng. Nhắc đến sông Thiên Đức, không thể không nhắc đến: Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của vương triều Lý đã khai sinh ra nền văn minh Đại Việt; Vua Lý Thánh Tông đặc biệt yêu thích, thường cưỡi thuyền rồng đi lại trên sông rồi xuôi về quê ngoại (ở xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) và đến kinh thành Thăng Long.

Làng cổ nhất Hà Nội hiện nay cũng nằm bên bờ sông này. Đó là làng Sủi, trước là địa bàn cư trú của người Việt cổ thời Hùng Vương. Làng Sủi tên Nôm là kẻ Sủi, tên Việt cổ là SLủi, âm Hán là Thổ Lỗi. Đây cũng là quê hương của nguyên phi Ỷ Lan, vợ Vua Lý Thánh Tông - một vị vua giàu lòng yêu nước, thương dân. Năm 1068, Lý Thánh Tông đổi tên làng thành hương Siêu Loại nay là thôn Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Vào tháng tám âm lịch hàng năm, từ ngày mồng 1 đến ngày 12 diễn ra lễ hội đến Ghềnh, bên bờ sông Thiên Đức.

Năm 1958, cửa sông được mở rộng thành một phân lưu quan trọng làm giảm sức uy hiếp của lũ sông Hồng đối với Hà Nội. Những năm gần đây, dự án cụm cầu Đông Trù vượt sông Đuống cũng đã được khởi công, tương lai sẽ góp phần giao thông thuận lợi.

Nhưng, điều đáng nói ở đây là con sông Thiên Đức lịch sử ấy đang bị ô nhiễm trầm trọng, trở thành một bài toán khó đối với các cấp chính quyền. Đứng trước thực trạng như hiện nay, cần nhìn nhận và đánh giá lại vai trò của sông từ trong lịch sử để chúng ta có hướng khắc phục, thiết nghĩ cũng là là điều nên làm.

Để có được dòng sông lấp lánh như thi sĩ Hoàng Cầm đã tạo tác thơ ca “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh”, sông đã nhiều lần phải dụng công sức của rất nhiều người ngay từ khi còn tên sơ khai là Thiên Đức. Dựa trên những văn bản còn lưu giữ được, sông Thiên Đức được chú trọng từ thời Lý. Chính vì vậy từ thời Lý, Trần, năm nào sông cũng được khơi thông “..Ấy là bởi công việc khơi sông tự cổ đã có…Từ đầu đời Trần đến nay, trải các đời đều có bồi đắp tu sửa đê điều để che chắn cho dân, bảo vệ nông nghiệp”(2). Đến thời Nguyễn, đặc biệt là triều Vua Minh Mệnh, công việc trên lại tiếp tục được tiến hành.

Ông là vị Vua thứ hai của triều Nguyễn, con thứ tư của Vua Gia Long, tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, khi lên ngôi lấy niên hiệu là Minh Mệnh. Ông ở ngôi từ năm 1820 đến năm 1841. Sau khi ông mất, được phong thuỵ hiệu là Nguyễn Thánh tổ Nhân hoàng đế. Minh Mệnh được sử sách đánh giá là vị Vua thông minh, hiếu học, mọi việc triều chính đều do ông tự quyết nên tất cả quyền hành đều thâu tóm trong tay ông. Ông cũng là người có đóng góp cho công cuộc mở mang đất nước, đưa Đại Nam trở thành một quốc gia mạnh nhất trong các quốc gia Đông Nam Á thời bấy giờ.

Trong hơn hai mươi năm trị vì của mình, Vua Minh Mệnh rất khuyến khích công việc khai hoang và thuỷ lợi, đặc biệt là hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở vùng Bắc Bộ. Một minh chứng điển hình cho nhận định trên là công cuộc nạo vét, khai sông Thiên Đức. Nó càng thể hiện rõ nét ở những suy nghĩ băn khoăn, trăn trở của Vua không biết có nên tiến hành hay không “Trầm cũng đã có ý ấy. Nhưng chưa dám đem việc ấy ra làm. Nay ý kiến của các ngươi đại lược cũng giống với Trẫm. …Giao cho đình thần xem xét kỹ càng rồi nghị tấu”(3). Ngày 15 tháng 8 năm Minh Mệnh 10, Quan đê chánh Bắc thành cũng làm tờ tấu trình Vua xin cho “khơi rộng phía dưới sông, nắn thẳng những đoạn quá quanh co”(4) bởi nhận thấy tầm quan trọng của sông: “Huống hồ sông Thiên Đức tắc là ảnh hưởng đến giao thông của thành đó”(5).

Về nguyên nhân cần phải khơi thông, Quan đê chánh Bắc thành thời ấy là Lê Đại Cương đã tâu rõ: “..Cửa sông đó có một đoạn nguyên là ngang ra, khiến thế nước không thuận nên đã bị đất lấp. Lòng sông ở hạ lưu thì vẫn còn nhưng nhiều đoạn quanh co…”(6).

Sau đó vị Quan này trình bày phương án cải tạo dòng sông: “Nếu muốn khơi thông có lẽ nên dời cửa sông một đoạn lên phía trên. Phía dưới thì khơi rộng ra...Vả lại sông này phía trên phân đôi, lâu dần bị tắc lại phải dụng công hơi nhiều. Đoạn dưới một dòng, nước sông còn sâu, dụng công không mấy. Còn cụ thể dài ngắn thước tấc thế nào, phải tiến hành cho đo đạc..”(7)

Cũng đã có lần định “phá bỏ đê để khơi mở đường sông”(8) nhưng sau khi tiến hành đo đạc, khám xét, công việc trên không được tiến hành. Vua Minh Mệnh rất coi trọng vai trò của sông nên khi bề dưới tâu trình các phương án cải tạo, đã có lời phê rằng: “Truyền giao cho đình thần xem xét kĩ, phải nghị bàn, rồi tâu trình lên”(9). Hiểu được những băn khoăn của Vua, đến ngày 5 tháng 9 năm Minh Mệnh 10, Đình thần đã làm một bản tấu trình đại ý đồng ý với phương án nắn chỉnh, nạo vét của Quan đê chánh Bắc Kỳ. “Nay chúng thần tuân mệnh xem xét, lần này khai sông Thiên Đức đem lại lợi ích to lớn cho muôn đời sau. …Cửa sông mở ở chỗ nào, đoạn nào quá hẹp cần đào cho rộng thêm. Đoạn nào nông tắc cần đào rộng và sâu thêm. Đoạn nào quanh co cần khai cho thẳng hết, hai bên bờ sông cần đắp đê ngăn giữ thế nào.. Tất cả phải vẽ thành bản đồ để ước tính tổn phí và công sức…”(10)

Kết quả của công cuộc khai thông sông Thiên Đức được thần Nguyễn Kim Bảng tâu vào ngày 12 tháng 10 năm Minh Mệnh 10: “Viên kinh lý đã trình bày hoàn thành trách nhiệm, những vật liệu đã chi cho công trình tập hợp thành sách để xin được thanh toán”(11)

Qua những tài liệu vừa nêu trên, chúng ta nhận thấy nhiều phẩm chất đáng quý của Vị Vua triều Nguyễn mà sử sách vẫn hằng ca tụng. Ông luôn cân nhắc, trăn trở kể cả những công việc nhỏ nhất bởi ông hiểu rõ giá trị to lớn mà sông Thiên Đức mang lại. Điều ấy nhắc nhở những thế hệ sau này càng phải nâng niu và trân trọng những giá trị mà thiên nhiên ban tặng. Hà Nội đẹp thơ mộng một phần bởi những dòng sông, hồ chảy giữa lòng thủ đô. Hãy để những con sông ấy chảy mãi những dòng chảy xanh, sạch để dấu ấn nghìn năm Thăng Long trường tồn mãi với thời gian ./.

ThS. Đào Hải Yến - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Chú thích

1.Theo Lịch triều Hiến chương loại chí

2.Tờ 149 tập 30, Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

3.Tờ 42b, tập 33 Ngày 5 tháng 9 Minh Mệnh 10. phông Châu bản triều Nguyễn, TTLTQGI

4.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

5.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

6.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

7.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

8.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

9.Tờ 149 tập 30 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

10.Tờ 42b, tập 33 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

11.Tờ 76 tập 37 Minh Mệnh 10, phông Châu bản triêu Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Created by doanthuha

luutruvn.gov.vn

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 7732

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Những cái nhất của các vua triều Lý

  • 14/05/2010 08:05
  • 3837

Nhà Lý là một triều đại lớn có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước và để lại dấu ấn sâu đậm trong xã hội trên mọi phương diện.