Chủ Nhật, 16/02/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

04/03/2010 10:50 3051
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Tết xuất phát từ chữ tiết mà ra. Tiết tức là thời tiết. Theo lịch của những người trồng lúa thì một năm có 24 tiết. Như vậy, cứ 15 ngày là một tiết. Do đó, tết sinh ra từ trong xã hội có nền kinh tế nông nghiệp. Là một đất nước có nghề trồng lúa từ khá sớm, cách ngày nay hơn 3000 năm, nên cái tết của dân tộc ta cũng gắn liền với thời tiết của một nước nông nghiệp.
Tết xuất phát từ chữ tiết mà ra. Tiết tức là thời tiết. Theo lịch của những người trồng lúa thì một năm có 24 tiết. Như vậy, cứ 15 ngày là một tiết. Do đó, tết sinh ra từ trong xã hội có nền kinh tế nông nghiệp. Là một đất nước có nghề trồng lúa từ khá sớm, cách ngày nay hơn 3000 năm, nên cái tết của dân tộc ta cũng gắn liền với thời tiết của một nước nông nghiệp.
Nhân dân ta thường ăn tết vào cuối tháng Chạp. Chữ chạp xuất phát từ chữ lạp, mà nghĩa của chữ này là đi săn bắn. Khi công việc nhà nông đã ổn định, trai tráng trong các làng xã thường tổ chức các cuộc đi săn thú vào tháng cuối cùng của năm. Bởi thế mới gọi tháng này là tháng chạp – tháng săn bắn.
Đồ lễ cúng Ông Táo

Sau khi đi săn về, mọi người làm lễ ăn mừng kết quả thu hoạch qua một năm làm việc vất vả, khó nhọc của mình. Trong những ngày lễ này, người ta thường nhớ tới tổ tiên và không quên mong ước tổ tiên giúp đỡ họ trong việc làm ăn vào năm mới thu nhiều kết quả. Chính những ngày ăn mừng, vui chơi cuối năm như vậy, được gọi là những ngày Tết.

Theo phong tục của nhân dân ta, trong một năm chúng ta có nhiều ngày tế, như tết Nguyên đán, tết Hạ nêu, tết Mồng 3 tháng 3, tết giết sâu bọ, hay tết mồng 5 tháng 5, tết Rằm tháng 7, tết Trung thu...song lớn nhất và chủ yếu nhất vẫn là ngày Tết nguyên đán.

Ngày tết Nguyên đán thực sự bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp và chấm dứt vào ngày mồng 7 tháng giêng. Trong 15 ngày gọi là Tết ấy, mỗi ngày lại có một ý nghĩa khác nhau.

Chẳng hạn như ngày 23 tháng Chạp được gọi là ngày tết bếp vì, theo như nhân dân vẫn nói, hôm ấy ông Thần bếp – ông Táo- lên chầu trời.

Ngày 30 tháng Chạp gọi là ngày Tất niên, tức là ngày cuối cùng của một năm, ngày thanh toán công việc trong cả năm, và – năm nào cũng vậy – cứ tới nửa đêm ngày 30 tháng Chạp, mọi người không ngủ để đón giao thừa, đón khoảng thời gian ranh giới thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới.

Ngày xưa, tối 30 tết nhà nào cũng phải đóng cửa kín mít, sợ ma quỷ vào nhà.

Sáng ngày mồng 1 tháng Giêng, hay là ngày Mồng một tết, được gọi là ngày Nguyên Đán hay Chính Đán. Từ sáng sớm, nhà nhà nhóm lò (than củi) và quạt cho lò than đỏ hồng để lấy may mắn đầu năm mới. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã làm đôi câu đối tết phản ánh rất đúng với sinh hoạt và tục ăn tết của nhân dân ta thời xưa:

Tối ba mươi ních chặt cánh càn khôn, kẻo sợ ma vương đưa quỷ tới;

Sáng mồng Một mở toang lò tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vô.

Ở đây tác giả ví làn gió là thiếu nữ. Trong ngày Mồng Một mọi nhà cúng tổ tiên và rước ông thần Bếp về.
Mâm cơm cúng Giao thừa hay Lễ trừ tịch

Ngày Mồng 7 tháng Giêng là ngày Tết khai hạ, tức là ngày hạ cây nêu, thứ cây chỉ có vào ngày Tết.

Cây nêu được trồng ngay giữa sân nhà, ở nông thôn người ta trồng nhiều hơn ở thành phố vì có khoảng sân rộng. Song chẳng phải trồng cây nêu khi nào cũng được. Những ngày ông Táo lên chầu Ngọc hoàng thượng đế (tức ngày 23 tháng Chạp tới Mồng Một tháng Giêng), không có người bảo vệ nhà cửa cho mình, mọi người đã trồng nêu để thay thế chức năng của thần Bếp. Nó chính là một cái cọc – thường là cây nứa – được coi như là một cái mốc giới hạn, không cho ma quỷ bén mảng tới địa phận từ cây nêu trở vào nhà. Không chỉ có thế, xung quanh chân cây nêu, người ta còn lấy vôi bột rắc thành hình các mũi tên và cung nỏ để bắn hồn ma quỷ nào định xâm nhập vào nhà họ. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ thay cho ông Táo ra, cây nêu còn làm việc giới thiệu cho mọi người thấy được mùa xuân mới đã đến bằng cành hoa cắm ở phía trên của nó. Nhân dân miền Bắc thường cắm hoa đào, còn ở miền Trung và miền Nam cắm hoa mai.
Cây nêu ngày tết

Một trò chơi không thể thiếu trong ngày Tết trước đây, đó là lệ đốt pháo (hiện nay không được phép đốt pháo, chỉ bắn pháo hoa trong dịp tết). Chẳng phải tới lúc có thuốc súng (thế kỷ XIII) mọi người mới biết đốt pháo. Tục đốt pháo đã có từ lâu, cách ngày nay hơn 2000 năm. Khi ấy, người ta đốt pháo bằng ống tre. Người ta chọn những chiếc ống tre thật kín cả 2 đầu, rồi đem hơ nóng lên tới một nhiệt độ nào đó thì tự nó nổ tung hai đầu ra, tiếng nổ gần giống như tiếng nổ của những quả pháo đốt ngày nay. Người ta quan niệm tiếng pháo có tác dụng trừ khử những tà ma của năm cũ. Trong nhà thường được trang trí bằng tranh gà, câu đối và cắm hoa.

Hoa ngày tết có nhiều nhưng mọi nhà thường cắm hoa đào, hoa mai, hoa hải đường, trồng cây quất... gọt tỉa hoa thủy tiên cũng là một thú chơi xuân của các nhà nho xưa.

Phú quý là bộ tranh được mọi người ưa thích vào dịp tết vì nó thể hiện đầy đủ cảnh sung túc của một gia đình làm nông nghiệp: thóc lúa, lợn gà... Câu đối tết được viết trên những tờ giấy hồng điều hay trên liễn sứ. Người ta thường chọn những đôi câu đối phù hợp với gia cảnh của mình để treo.
Mâm cơm cổ truyền ngày Tết

Ngày tết, gia đình nào cũng vui vì những ngày này thường có đông đủ mọi người. Dù ai ở đâu xa cũng cố tìm cách về sum họp với gia đình trong ngày tết, để đi mừng tuổi họ hàng, bạn bè quen biết bởi tết đến là mỗi người lại tăng thêm một tuổi nên mọi người đều mừng tuổi lẫn nhau. Đây cũng là một trong những phong tục chính của ngày tết nguyên đán.

Phong tục ngày tết còn nhiều, song đặc biệt quan trọng là tục lệ coi trọng ngày đầu năm, tức là ngày Mồng Một tết. Đó là ngày thiêng liêng nhất trong năm, người ta coi tất cả mọi việc trong cả năm đều mới bắt đầu, nên những việc làm trong ngày hôm đó có tốt đẹp thì trong cả năm, mọi việc mới được trôi chảy. Bởi thế mới có câu ca:

Một năm được mấy mùa xuân,

Một ngày được mấy giờ Dần buổi mai.

Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 6909

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Những nữ tướng vĩ đại nhất lịch sử nhân loại

Những nữ tướng vĩ đại nhất lịch sử nhân loại

  • 04/03/2010 09:23
  • 2854

Theo truyền thống, chỉ huy trận chiến là công việc của nam giới. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, phụ nữ cũng cầm súng và chiến đấu. Đôi khi vì sự tự do, đôi khi vì giành lãnh thổ, phụ nữ đã thống trị trận chiến và khiến những đối thủ nam giới phải hổ thẹn. Dưới đây là 5 trong số các nữ tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới.