Thứ Sáu, 20/09/2024
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

05/09/2008 00:32 3302
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Năm 1998, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành điều tra, khảo sát khảo cổ học tại khu Nam hồ Đồng Mô (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) nhằm phục vụ Dự án xây dựng Làng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam. Đây là một Dự án trọng điểm, có ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn, với qui mô đầu tư trên phạm vi 547ha, dự kiến hoàn thành và đi vào hoạt động vào khoảng năm 2020.
Năm 1998, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành điều tra, khảo sát khảo cổ học tại khu Nam hồ Đồng Mô (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) nhằm phục vụ Dự án xây dựng Làng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam. Đây là một Dự án trọng điểm, có ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn, với qui mô đầu tư trên phạm vi 547ha, dự kiến hoàn thành và đi vào hoạt động vào khoảng năm 2020.

Về mặt địa hình, đây là vùng đệm, chuyển tiếp giữa vùng đồi núi cao dưới chân núi Ba Vì với vùng đồng bằng thấp. Nơi đây mang đặc trưng của miền địa hình "bán sơn địa", với các đồi núi thấp dạng "bát úp" cùng hệ thống các sông suối nhỏ, hội tụ đủ các điều kiện thuận lợi sớm được người Việt cổ chọn làm nơi cư trú. Khoảng những năm 1960, các dòng chảy khu vực này được đắp chặn tạo thành hồ Đồng Mô để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Quá trình ấy đã tạo nên những biến đổi lớn về cảnh quan môi trường vốn có ở nơi đây. Nhiều quả đồi trở thành "đảo nổi" giữa hồ nước mênh mông, nhiều dòng suối đã biến mất hay bị "chết" vì khô cạn... và, theo đó nhiều di tích của con người phản ánh lịch sử lâu đời đã bị nhấn chìm. Mùa khô năm 1998 là năm hồ Đồng Mô nước xuống ở mức thấp nhất (cốt 13m), là cơ hội có thể tiến hành khảo sát khảo cổ học thuận lợi.

Cảnh quan khu vực Đảo Nổi

Kết quả khảo sát đã xác định được mật độ phân bố dày đặc của các di tích khảo cổ học từ hậu kỳ đá cũ cho đến các thời kỳ lịch sử, với dấu tích cư trú liên tục của con người từ hàng vạn năm trước đây.

Các di tích và di vật cổ xưa nhất ở khu vực này thuộc văn hoá Sơn Vi - một văn hoá khảo cổ thuộc hậu kỳ thời đại Đá cũ, có niên đại khoảng 2 vạn năm cách ngày nay. Các di tích và di vật phân bố trên hầu hết những sườn đồi trong khu Nam Đồng Mô như: Đảo Vải, Đảo Mỏ Vít, Đảo Xanh... với các công cụ cuội sông suối, cấu tạo hạt mịn, làm từ đá quarzitte màu vàng gan gà, xanh xám. Các loại hình đặc trưng như công cụ rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang (dạng chopper), 1/4 viên cuội, hạnh nhân, các công cụ mảnh tước được ghè đẽo trên một mặt, mặt còn lại và đốc giữ nguyên vỏ cuội. Sự hiện diện của những công cụ ghè đẽo đã chứng minh quá trình lao động sản xuất của cư dân thời Sơn Vi ở vùng đất này, song, điểm đáng chú ý là sự xuất hiện những công cụ rìa lưỡi ngang có vết ghè đẽo thô sơ, gợi ý về dấu tích của văn hoá Sơn Vi giai đoạn sớm ở nơi đây.

Công cụ đá Sơn Vi

Bước sang thời đại Đá mới, có lẽ do ảnh hưởng của những đợt biển tiến, con người thay đổi địa bàn cư trú, rút lên những vùng núi cao, sinh sống trong những vùng núi đá vôi, bởi vậy, nơi đây dường như không thấy các vết tích của văn hoá Hoà Bình, ngoại trừ những dấu vết phản ánh kỹ thuật của văn hoá này.

Bàn mài

Tiếp đến, rất đậm đặc là nhóm di tích và di vật thuộc hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí được tìm thấy ở hầu khắp các sườn đối, sát với mép các con suối nhỏ với các loại hình công cụ như: rìu bôn tứ giác, rìu bôn có vai và các loại bàn mài (rãnh, vũm) thể hiện rõ tính chất chế tác tại chỗ của các loại hình công cụ này. Về cơ bản các di tích và di vật này đã phản ánh sinh động đời sống con người cách đây khoảng 4.000 - 5.000 năm, với kỹ thuật chế tác công cụ đá khá "hoàn hảo", các công cụ điển hình của thời kỳ này. Các loại hình di vật không có gì khác biệt, ngoại trừ đặc trưng nguyên liệu sử dụng với các loại đá "kém" chất lượng (đá phtanit), dạng đá trầm tích, mềm, hạt thô giống với các di tích cùng thời ở Tây Nguyên. Có lẽ bởi đặc trưng này qui định nên các công cụ dạng rìu/bôn, mặc dầu lưỡi được tạo có tiết diện hình chữ V cân hay lệch, song các mặt vát đều mài hơi cong khum, phần rìa lưỡi hơi tù, tạo cho tiết diện gần giống hình parabol, nên lưỡi không thật sắc và mỏng, nên thường xuyên được tu chỉnh (mài, rũa) khiến số lượng bàn mài các loại tìm được ở đây nhiều, như phản ánh tính chất của xưởng chế tác.

Rìu bôn có vai

Các dấu tích của con người thời Sơ sử cũng được phát hiện, song mờ nhạt hơn với các di vật của văn hoá Đông Sơn gồm một số mảnh vỡ của thạp đồng, trang trí đường tròn tiếp tuyến và vạch ngắn song song, cùng một vài mảnh gốm nhỏ trang trí văn khắc vạch kết hợp văn chải là mảnh của nồi và các đồ đựng gốm, bên cạnh mảnh vỡ của hũ gốm văn in ô vuông đặc trưng văn hoá Hán. Thực tế nghiên cứu và phát hiện đã cho thấy vào thời kỳ này, khu vực địa hình như Đồng Mô dường như không phù hợp với xu thế hình thành các trung tâm chính trị hồi đầu Công nguyên.

Nguyễn Văn Đoàn
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 6407

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Tượng con giống trang trí trên mái kiến trúc thời Mạc phát hiện ở di tích Dương Kinh - Hải Phòng năm 2004

Tượng con giống trang trí trên mái kiến trúc thời Mạc phát hiện ở di tích Dương Kinh - Hải Phòng năm 2004

  • 05/09/2008 00:29
  • 2453

Trong sưu tập vật liệu kiến trúc phát hiện được qua đợt khai quật ở di tích Dương Kinh năm 2004, ngoài những loại hình vật liệu như gạch, ngói, diềm trang trí, có một nhóm di vật khá phong phú, gây được sự chú ý của chúng tôi, đó là nhóm tượng con giống trang trí kiến trúc.