Nghề làm gốm là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam. Nghề gốm phát triển rực rỡ nhất khoảng từ cuối thế kỉ X, khi nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập. Đó là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, chính vì vậy đề tài Phật giáo đã ảnh hưởng không ít đến các hình ảnh, hoa văn, hoạ tiết trang trí trên đồ gốm.
Nghề làm gốm là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam. Nghề gốm phát triển rực rỡ nhất khoảng từ cuối thế kỉ X, khi nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập. Đó là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, chính vì vậy đề tài Phật giáo đã ảnh hưởng không ít đến các hình ảnh, hoa văn, hoạ tiết trang trí trên đồ gốm.
|
Tháp đất nung Lý Trần |
1 - Gốm thời Lý (1010 - 1224)
Cuối thế kỷ X, hai triều đại quân chủ chính thống đầu tiên là Đinh và Tiền Lê nối nhau cầm quyền trị nước được 42 năm (968 - 1009) nhưng chưa thực hiện được những cải cảnh xã hội quan trọng. Năm 1010, Lý Công Uẩn được quân dân tôn lên ngai vàng thay thế nhà Tiền Lê. Ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về trung tâm Đại La và đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội). Nước Đại Việt bước vào giai đoạn phục hưng toàn diện.
Thời Lý, từ vua quan cho đến dân chúng đều sùng tín đạo Phật, tôn làm quốc giáo. Triều đình đứng ra xây dựng chùa tháp tại kinh đô và khắp các địa phương, quy mô to lớn không thua gì cung điện. Nhằm phục vụ nhu cầu kiến trúc, trang trí, thờ phụng tín ngưỡng, ngành gốm được thúc đẩy phát triển nhanh chóng. Ngày nay chúng ta không còn thấy hai toà bảo tháp bằng gốm tráng men lưu ly tại quốc tự Diện Hựu (chùa Một Cột - Hà Nội) như sử sách ghi lại, nhưng các toà tháp thu nhỏ, các phù điêu trang trí, các loại gạch lát nền... bằng đất nung không phủ men, khai quật được dưới các phế tích đời Lý thể hiện các đề tài Phật giáo:
- Hình đức Phật toạ thiền
- Hình rồng ẩn mình trong cánh hoa sen, lá bồ đề hay bay trên mây hoặc đùa giỡn cùng sóng nước.
Quan niệm Phật giáo, rồng là một trong 8 bộ chúng (1) thường ủng hộ Tam Bảo. Đề tài rồng được dùng trang trí chùa tháp thờ Phật phổ biến từ xưa đến nay.
Ngoài loại gốm đất nung, thời Lý còn sản xuất được loại gốm gia dụng cao cấp phủ men ngọc, men ngà, men xanh lục rất đẹp. Hoa sen là nguồn cảm hứng dạt dào để tạo mẫu. Những loại bát, dĩa có đồ án trang trí hình hoa sen búp, nở bằng cách đắp nổi hoặc khắc chìm trước khi phủ men độc sắc. Cuối thời Lý phát minh thêm màu nâu đậm đà có thể dùng bút lông tô, vẽ thẳng lên cốt gốm. Nhờ đó các đề tài trang trí phong phú, bay bướm hơn.
|
Đĩa men ngọc Lý Trần |
2- Gốm thời Trần (1225 - 1339)
Với mưu lược của thái sư Trần Thủ Độ, ngai vàng họ Lý chuyển vào tay họ Trần một cách êm ái, không gây xáo động lớn trong xã hội.
Đạo Phật vẫn được cả nước tôn sùng. Vua quan và dân chúng kiến tạo chùa tháp khắp nơi. Trên cơ sở truyền thống, nghề gốm liên tục phát triển. Các đề tài Phật giáo như hình Phật, rồng, hình tháp, hoa sen, hoa cúc, lá bồ đề... vẫn thể hiện trên các vật phẩm gốm xây dựng trang trí và thờ cúng, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Sản phẩm đồ gốm gia dụng thời Trần không còn vẻ thanh nhã như đời Lý mà tạo dáng vững chắc, giản dị. Đồ gốm hoa lam dưới men thời Trần là một thành tựu lớn làm căn bản cho nghề gốm các đời sau kế thừa và phát triển.
3- Gốm thời Lê Sơ (1428-1526)
Lãnh đạo quân dân kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh thành công, Lê Lợi khai sáng triều Lê. Nhà Lê dựa vào Nho giáo để thiết lập mô hình xã hội quân chủ chuyên chế. Phật giáo không được triều đình chính thức ủng hộ như thời Lý Trần. Nhà nước hạn chế việc xây dựng chùa chiền, tu hành theo đạo Phật. Do đó thời Lê Sơ, Phật giáo không có dấu ấn quan trọng trên đồ gốm mỹ thuật lẫn gia dụng.
|
Gốm đời Trần |
4- Gốm thời Mạc (1527 - 1593)
Năm 1527, quyền thần Mạc Đăng Dung bức tử Lê Cung Hoàng, bước lên ngai vàng khai sáng triều Mạc.
Để thu phục quần chúng lao động chống lại thành phần Nho sĩ trung thành với nhà Lê, nhà Mạc bãi bỏ chính sách hạn chế Phật giáo. Quý tộc và nhân dân tích cực ủng hộ trùng tu xây dựng chùa chiền. Nghề gốm gặp cơ hội thuận lợi phát triển nên trở lại tìm nguồn cảm hứng chế tác theo đề tài Phật giáo.
Nhiều nghệ nhân gốm còn lưu danh trên sản phẩm của mình, tiêu biểu là Đặng Mậu Nghiệp, tự Huyền Thông; quê xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay thuộc xã Minh Tân, huyện Nam Thanh - Hải Dương). Ông học Nho, đỗ tam trường, nhưng cả gia đình quy y Phật, cùng với vợ là Nguyễn Thị Đỉnh, hiệu Từ Am làm hội chủ trùng tu ngôi chùa cổ An Đinh tại quê nhà vào năm 1587. Gia đình họ Đặng thành lập lò gốm chuyên chế tạo đồ thờ như lư hương, bình hoa, chân đèn, theo sự đặt hàng cảu tín đồ dâng cúng vào các chùa chiền. Hình dáng lư hương làm theo kiểu mũ Tỳ lư (2) trên hai dải quai lớn ghi rõ tên họ, quê quán của người chế tạo, người đặt hàng, niên đại và nơi cúng tiến; 4 dải nhỏ ghi bài kệ cúng hương (3):
Định hương
Tuệ hương
Giải thoát hương
Giải thoát tri kiến hương
Đồ án trang trí đắp nổi rồng, chữ Phật, Tam Bảo, Phước , sen dây, cánh hoa sen, lá đề, vạch đứng song song, răng cưa... được phân bố trong các ô vuông, tròn, chữ nhật chia đều quanh thân lư. Đế lư tạo dáng giống trống đồng. Hình ảnh chiếc mũ của nhà Phật đặt trên chiếc trống đồng diễn tả sự kết hợp chặt chẽ giữa dân tộc Việt Nam với Phật giáo.
|
Lư hương gốm |
Văn minh đắp nổi khắc chìm trên các sản phẩm gốm thời Mạc ghi lại đủ mọi thành phần xã hội, tăng, tục, nam, nữ... phản ánh tinh thần bình đẳng trang chốn Thiền môn, khác hẳn với chỗ tế tự của Nho giáo.
5- Gốm thời Hậu Lê (1593 - 1789)
Nhà Lê được hai họ Nguyễn, Trịnh nỗ lực phò tá, năm 1593 đánh bại nhà Mạc trở về Thăng Long. Sau thời kỳ chiến tranh dữ dội, các trung tâm gốm nổi tiếng ở Chu Đậu, Thanh Lâm gần quê hương của vua Mạc bị tàn phá nặng nề nên tàn lụi dần. Từ thế kỷ XVII - XVIII, nghề gốm chỉ còn hoạt động ở vùng Bát Tràng, Thổ Hà, sản xuất loại gốm thờ cúng theo phong cách mới, các đề tài từ Phật giáo mất dần, thay thế bằng các đề tài Nho giáo như tứ linh, tam hữu, tam đa, lục bảo... Điển hình, trên một chân đèn gốm thời kỳ này ghi: "Ứng Thiên phủ, Sơn Minh huyện, Đông Lỗ xã, Chuyết Lưu Ba Tiêu thôn, Phúc Lâm tự. Tiểu tăng Nguyễn Khang Thọ, tự Pháp Cao, thê Phạm Thị Tào, hiệu Diệu Bình". Dịch nghĩa: Thầy tu Nguyễn Khang Thọ tự Pháp Cao, cùng vợ Phạm Thị Tào hiệu Diệu Bình, cúng vào chùa Phúc Lâm ở thôn Chuyết Lưu Ba Tiêu, xã Đông Lỗ, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên.
Tuy do một nhà sư đặt làm cúng vào chùa nhưng nhìn vào hiện vật chúng ta không còn thấy các đề tài trang trí Phật giáo nữa. Kiểu cách cây đèn thờ thể hiện tinh thần khô cứng của Nho giáo ở chốn đình trung.
Cuối thế kỷ XVIII, nghề gốm Việt Nam suy thoái vì nhiều nguyên nhân nội tại và ngoại lai. Đồ tự khí, trang trí tại chùa chiền dần dần thay thế bằng loại đồ sứ Trung Quốc. Đồ gốm gia dụng không có gì đặc sắc chỉ phục vụ giới bình dân.
Sau thời gian dài bị lu mờ trước vẻ đẹp sắc sảo, rực rỡ của đồ sứ Trung Quốc, đến nay, đồ gốm cổ Việt Nam đã được các nhà nghiên cứu, sưu tập đặc biệt quan tâm. Quý hiếm nhất là loại gốm thờ cúng chế tạo thời Lý, Trần, Lê, Mạc. Nó phản ánh rõ ràng tư tưởng, trình độ mỹ thuật, kỹ thuật của từng triều đại. Thông qua cổ vật chúng ta có thể hiểu thêm về lịch sử nước nhà mà sách vở không ghi chép đầy đủ vì nhiều lý do...
Tác giả : Trần Đình Sơn
................................................
Chú thích:
(1) Thiên long bát bộ: tám bộ trời và rồng. Trời và rồng là hai bộ chúng đứng đầu trong tám bộ chúng có thần lực: Trời; Rồng; Dạ Xoa; Càn Thát Bà; A Tu La; Ca Lâu La; Khẩn Na La; Ma Hầu La già.
(2) Tỳ Lư mạo: loại mũ của các nhà sư dùng lúc làm lễ, có thêu hình đức Phật Tỳ lư tức Đại Nhật Như Lai của Mật tông
(3) Lấy hương ví với ngũ phần phất thân, trên thân lư có 4 dải nên bỏ bớt phần giới hương.
(Nguồn: Tạp chí Xưa & nay, số 144, tháng 7/2003)