Di tích Lam Kinh ở toạ độ 19 0 55’565” vĩ Bắc, 105024’403” kinh Đông, thuộc địa phận xã Xuân Lam (Thọ Xuân) và Kiên Thọ (Ngọc Lặc) tỉnh Thanh Hoá.
Di tích Lam Kinh ở toạ độ 19055’565” vĩ Bắc, 105024’403” kinh Đông, thuộc địa phận xã Xuân Lam (Thọ Xuân) và Kiên Thọ (Ngọc Lặc) tỉnh Thanh Hoá.
|
Cảnh quan khu vực Lam Kinh |
Đây vốn là đất Lam Sơn, quê hương anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại hồi đầu thế kỷ 15. Cũng như các triều đại phong kiến trước đó, nhà Lê với lòng tôn kính tổ tiên, đã cho xây dựng nhiều công trình điện, miếu thờ. Lam Sơn cũng là nơi an táng các vua và Hoàng hậu thời Lê sơ. Nơi đây được coi là
Kinh đô thứ hai (Lam Kinh hay Tây kinh) của nhà nước Đại Việt thời Lê sau Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Bởi vậy, Lam Kinh đương thời là vùng đất
căn bản và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà hậu Lê.
Theo sử cũ, kinh đô Lam Kinh bắt đầu được xây dựng từ năm 1433, hoàn thiện dần vào các năm sau đó với rất nhiều công trình mới được xây dựng, rồi bị cháy (?), rồi được trùng tu, sửa chữa... Mãi cho tới năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho Thái uý Lê Khả và cục Bách Tác làm lại điện miếu ở Lam Kinh, khi công trình hoàn thành được triều đình bảo vệ. Tiếp đó, năm 1456, trong dịp hành lễ ở Lam Kinh, vua Lê Nhân Tông đã đặt tên cho 3 toà điện chính là Quang Đức, Sùng Hiếu và Diễn (Diên) Khánh. Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, các vua và Hoàng tộc nhà Lê sơ đều Lam Kinh về bái yết Sơn Lăng.
Trong quá trình tồn tại, Lam Kinh nổi tiếng không chỉ bởi các điện, miếu, lăng mộ có qui mô to lớn, mà đã trở thành vùng đất linh thiêng, in sậu đậm trong tâm thức dân gian. Lịch triều hiến chương lọai chí của Phan Huy Chú cho biết khá rõ diện mạo của Lam Kinh: "Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Chiêu Lăng của Lê Thái Tông và lăng các vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện, lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. Lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở Giảng Đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở Kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp".
|
Núi Mục |
Mặc dầu vậy, trải qua thời gian với bao biến thiên của lịch sử, di tích đã bị xâm huỷ nặng nề. Vào khoảng đầu thế kỷ 20, nói đến Lam Kinh, người đương thời chỉ còn biết đến mộ Lê Thái Tổ và ngôi đền mới được xây dựng. Còn khu điện miếu và hệ thống lăng mộ ở Lam Kinh đã trở nên hoang phế, với những doi đất hình chữ Công, hình chữ nhật, hình vuông… bị thảm thực vật che lấp.
Suốt từ đó cho đến tận năm 1995, di tích Lam Kinh vẫn chưa được sự quan tâm thích đáng. Thời kỳ này di tích bị xuống cấp nghiêm trọng, duy chỉ có bia Vĩnh Lăng được phục hồi để bảo vệ. Toàn bộ vết tích nền, móng các công trình điện miếu, đặc biệt là những thành bậc lên xuống phía trước toà Chính Điện, Thái Miếu, trang trí rồng mây đặc biệt tinh tế đều bị hư hại nặng. Còn với hệ thống lăng mộ với hai hàng tượng người và thú đứng chầu cũng bị ảnh hưởng. Đặc biệt là các tấm bia mộ, có kích thước to lớn, trang trí hình rồng, mây và khắc ghi công tích của các vị vua (và Hoàng hậu) đầu triều Lê sơ, thực sự là nguồn sử liệu trực tiếp, sống động thì đều bị nghiêng đổ, xô lệch và không có mái che mưa nắng....
|
Trang trí thành bậc lên Thái Miếu |
Trước tình trạng xuống cấp của di tích, nhận thức được tầm quan trọng, giá trị lịch sử, văn hoá to lớn của Lam Kinh, năm 1995 Dự án Quy hoạch tổng thể, trùng tu, tôn tạo và phục hồi di tích Lam Kinh đã được phê duyệt. Đây là một quyết định kịp thời và có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nhằm tôn vinh triều hậu Lê - vương triều có lịch sử dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, tôn vinh Lê Lợi, anh hùng giải phóng dân tộc và các công thần nhà Lê. Chính nhờ có Dự án này, công tác nghiên cứu và khai quật khảo cổ học đã được tiến hành một cách có hệ thống. Từ năm 1996 đến nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với ngành Văn hoá - thông tin Thanh Hoá tiến hành điều tra, khảo sát, thám sát và khai quật khảo cổ học, từng bước phục dựng lại đầy đủ mặt bằng tổng thể khu trung tâm di tích Lam Kinh.