Để phục vụ cho công tác thiết kế, trùng tu và tôn tạo Khu trung tâm Di tích chùa Đậu, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 7 năm 2006, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở VHTT Hà Tây đã phối hợp tiến hành khai quật nhằm tìm hiểu các thông tin khoa học liên quan đến lịch sử hình thành và biến đổi của khu vực kiến trúc này.
Để phục vụ cho công tác thiết kế, trùng tu và tôn tạo Khu trung tâm Di tích chùa Đậu, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 7 năm 2006, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở VHTT Hà Tây đã phối hợp tiến hành khai quật nhằm tìm hiểu các thông tin khoa học liên quan đến lịch sử hình thành và biến đổi của khu vực kiến trúc này.
Mặc dù phạm vi khai quật lần này chỉ bó hẹp trong không gian trên 200m
2 khai đào, nhưng qua diễn biến địa tầng và những dấu tích kiến trúc xuất lộ trong các hố đào đã khẳng định khu vực trung tâm chùa Đậu đã trải qua nhiều giai đoạn xây dựng, trùng tu và sửa chữa, bước đầu xác định có 3 lớp kiến trúc tồn tại trong lòng đất nơi đây
(bản vẽ 2).
Lớp kiến trúc có niên đại sớm nhất là lớp kiến trúc thứ 3 thuộc giai đoạn thời Trần (thế kỷ XIII - XIV). Dấu vết kiến trúc còn lại của lớp kiến trúc này chỉ có một đoạn móng bó, dài 1,1m, cao 0,25m, xây tận dụng nhiều gạch vỡ, bên cạnh đó là dấu tích cống nước và đống vật liệu đổ. Tuy nhiên, với việc phát hiện lớp kiến trúc này cùng với đôi rồng đá còn lại ở thành bậc nhà Tiền Đường, có thể xác nhận niên đại xây dựng sớm nhất hiện biết ở di tích chùa Đậu là giai đoạn thời Trần (thế kỷ XIII - XIV).
 |
|
Bước sang giai đoạn thế kỷ XVI - XVII với việc phát hiện lớp kiến trúc thứ 2, kết quả khảo cổ học đã xác định được toàn bộ quy mô và kết cấu nền móng của kiến trúc trung tâm chùa với mặt bằng hình chữ Công (I), gồm hai toà Thiêu Hương và Thượng Điện liên kết với nhau bằng một ống muống, niên đại xây dựng vào giai đoạn đầu thế kỷ XVII, trên cơ sở tận dụng tối đa các nguyên vật liệu của thời Mạc - thế kỷ XVI. Móng kiến trúc được xếp bằng gạch vồ màu đỏ sẫm, kích thước dao động: dài từ 36 - 38cm, rộng từ 12 - 14cm, dày từ 8,5 - 9,5cm. Gạch xếp so le ngang - dọc (một viên nằm ngang, một viên khoá), khít mạch, không có vữa liên kết. Đáng chú ý, nhiều viên gạch tham gia bó móng có trang trí nổi hình rồng yên ngựa, chuột chầu hoa sen, cá hoá long... ở rìa cạnh hoặc một mặt rộng của viên gạch. Một số viên gạch dùng để khoá hoặc quày góc thì được trang trí nổi ở đầu viên gạch với các đề tài như linh thú, hoa sen... Chắc chắn, vào thời Mạc, di tích chùa Đậu đã có một đợt tu tạo lớn. Hiện nay, tuy chưa có tư liệu nào ghi chép về giai đoạn sửa chữa chùa vào thời Mạc, nhưng qua tấm bia Sùng Khang thứ nhất (1566) đời Mạc Mậu Hợp ghi chép về số ruộng của chùa gần 100 mẫu cùng với số lượng vật liệu thời Mạc phân bố dày đặc trong hố đào đã minh chứng rõ nét về một giai đoạn tu sửa lớn ở thời Mạc.
 |
|
Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XVII, chùa Đậu lại được trùng tu, sửa chữa khang trang hơn, do Cung tần Ngô Thị Ngọc Nguyên đứng ra làm hội chủ hưng công. Tấm bia Dương Hoà năm thứ 5 (1639) (hiện còn lưu giữ trong chùa) ghi rõ: “tháng 10 năm Bính Tý (1636) bà xuất kho nội phủ và tiền của tư nhân cho phát mộc, khởi công dựng hai toà Tiền Đường và Thiêu Hương, bồi đắp chỗ hư hỏng. Hai năm sau công việc hoàn thành, trông thật nguy nga”. Điều này được phản ánh rõ qua dấu tích móng bó thu hẹp nền kiến trúc Thượng Điện và các viên gạch trang trí hoa văn thời Mạc bị xếp úp vào trong hoặc bị đè chặn bởi các viên gạch không có trang trí, làm thay đổi chức năng vốn có của chúng. Có lẽ, vào thời Lê trung hưng, khi quyền cai trị đất nước của nhà Mạc đã về tay nhà Trịnh (núp dưới danh nghĩa phù Lê) thì những hoa văn trang trí mang dấu ấn thời Mạc xuất hiện trên công trình kiến trúc quan trọng như di tích chùa Đậu sẽ không còn phù hợp. Hơn nữa, người đứng ra làm hội chủ hưng công để trùng tu, sửa chữa lại chùa Đậu lại là Cung tần Ngô Thị Ngọc Nguyên, vợ của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, như thế làm sao có thể để những dấu ấn thời Mạc xuất hiện trong công trình kiến trúc do mình đứng ra cho tiền của để xây dựng được.
Có thể nói, mặt bằng kiến trúc chùa Đậu có quy mô bề thế như ngày nay, cơ bản được hình thành từ giai đoạn thế kỷ XVI - XVII.
Đến giai đoạn thế kỷ XIX, mặt bằng kiến trúc chùa Đậu tiếp tục được mở rộng, xây mới với quy mô bề thế hơn. Cụ thể ở khu vực trung tâm chùa, với việc làm rõ mặt bằng kiến trúc thời Nguyễn, đã cho thấy ba công trình kiến trúc Thiêu Hương, ống muống và Thượng Điện đều mở rộng diện tích so với kiến trúc thời Mạc và Lê trung hưng.
Như vậy, với việc phát hiện ba lớp kiến trúc có niên sớm muộn nằm xếp chồng lên nhau, kết quả khảo cổ học đã cho thấy được vai trò, vị trí quan trọng của công trình kiến trúc trung tâm chùa Đậu. Qua từng giai đoạn, từng thời kỳ, công trình lại được đầu tư xây dựng, sửa chữa cho ngày một bề thế và khang trang hơn. Từ kết quả đó, với việc xác định được 2 mặt bằng kiến trúc thời Mạc - Lê trung hưng và thời Nguyễn còn đầy đủ thông tin về quy mô và kết cấu, các nhà thiết kế trùng tu, tôn tạo di tích có thể dễ dàng lựa chọn được mặt bằng phù hợp để tiến hành trùng tu di tích. Đây là một trong những thành công lớn của đợt khai quật này.