Dân tộc Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng vẻ vang. Quá trình dựng nước và giữ nước đó, dân tộc ta thường phải đương đầu với những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Để chiến thắng kẻ thù, ông cha ta đã sáng chế rất nhiều loại vũ khí thô sơ nhưng công hiệu rất lớn, với cách đánh độc đáo, sáng tạo đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
Kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc, giữ nước của cha ông, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã đề ra đường lối quân sự với quan điểm cơ bản là chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Để có vũ khí đánh giặc, quân và dân ta đã tự tạo các loại vũ khí thô sơ từ nhiều nguồn: có loại tự chế, có loại được cải tiến từ phương tiện, dụng cụ sinh hoạt, sản xuất, có loại cải tiến từ vũ khí lấy được của địch để đánh địch…Nguyên liệu chế tạo vũ khí thường sẵn có ở địa phương như: tre, gỗ, đá, ong bò vẽ, lá độc…và dây thép, đạn lép thu lượm được của địch. Bằng vũ khí thô sơ, tự tạo, quân và dân ta đã khéo léo lừa địch, sáng tạo ra nhiều cách đánh có hiệu quả cao, góp phần tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh của quân địch.

Bàn chông, vũ khí lạnh, có mũi nhọn, được bố trí ở nơi nhất định, dùng sát thương sinh lực địch.
Trước nhu cầu bức thiết của cuộc chiến tranh nhân dân, quân và dân ta đã sáng tạo hàng trăm, hàng nghìn kiểu, loại vũ khí thô sơ. Từ loại đơn giản giản nhất như bẫy chông tre đến các loại mìn có cơ cấu điều khiển bằng điện tử. Kẻ địch chưa tìm được cách khống chế được loại vũ khí này, thì đã có ngay loại vũ khí khác ra đời, mức độ sát thương, sức công phá còn mạnh hơn các loại vũ khí trước.
Chưa có một tài liệu nào thống kê hết được số lượng, kiểu loại, kích cỡ và chất liệu làm nên cac loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam sử dụng trong chiến tranh chống đế quốc xâm lược. Chỉ riêng chông đã có trên 33 loại; súng “ngựa trời” có đến 40 kiểu; mìn, lựu đạn, thủy lôi có đến hàng trăm kiểu loại… Kết quả thống kê hiện có trong các tài liệu của Việt Nam chỉ là tương đối. Nhu cầu vũ khí của chiến trường đòi hỏi quân và dân ta trên khắp cả nước dấy lên phong trào thu nhặt phế liệu, bom mìn và sản xuất vũ khí. Mọi làng sản xuất chông, mọi huyện sản xuất lựu đạn, mìn; từng thôn ấp, xã, huyện của Việt Nam sản xuất vũ khí. Điều đó cho thấy số lượng và sự đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cá loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam.

Binh lính Pháp giẫm phải bàn chông của du kích Việt Nam.
Khi có giặc ngoại xâm, mọi người Việt Nam không phân biệt già trẻ, gái trai, ai ai cũng có thể làm được vũ khí và sử dụng vũ khí đó để đánh địch. Đàn ông trai tráng rèn búa, rèn dao, làm mìn, lựu đạn, làm trận địa đánh địch; người già, phụ nữ, trẻ em, vót chông, cắm chông, nhồi đạn… Các vũ khí được sản xuất to, nhỏ, nặng, nhẹ phù hợp với tầm vóc, lứa tuổi của người Việt Nam, các loại vũ khí này được sử dụng linh hoạt, lợi dụng điều kiện bất lợi của khí hậu, địa hình mỗi miền, mỗi vùng, đánh địch theo cách đánh sở trường của mỗi người, mỗi địa phương. Vì thế các loại vũ khí thô sơ, tự tạo không có cái nào giống cái nào, không đồng nhất về kích thước và trọng lượng.

Tổ ong bò vẽ, loại vũ khí tự chế cực độc của nhân dân ta khiến địch phải khiếp sợ.
Vũ khí thô sơ được làm bằng những vật liệu tại chỗ, vật liệu dân dụng, vật liệu quân dụng thu được của địch. Vật liệu tại chỗ có ở các địa phương như: tre, gỗ, đồng, chì, gang, sắt, phế liệu, chai, lọ, ong, rắn… Vật liệu quân dụng thu của địch gồm: bom, đạn lép, vũ khí hỏng, phế liệu thu từ xác máy bay, xe bọc thép, những con tàu bị quân và dân ta bắn cháy, bắn hỏng ở các địa phương. Vật liệu từ trên cung cấp có kíp nổ, dây cháy chậm… Từ những vật liệu đó, mỗi người, mỗi địa phương lại sản xuất ra loại vũ khí thô sơ, tự tạo, chúng có thể giống nhau về nguyên lý, cấu tạo nhưng khác nhau về chất liệu và hình dạng. Chông có nơi làm bằng đế gỗ - mũi sắt, có nơi làm bằng đế xi măng – mũi sắt, có nơi đế làm bằng ống tre – mũi tre vót nhọn. Mọi thứ đồ dùng sinh hoạt hàng ngày được nhân dân chế thành mìn. Trong cuốn “Cách dùng và đặt bẫy” tài liệu của địch dùng huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng hòa, xuất bản lần thứ nhất ngày 15 tháng 10 năm 1959, có đoạn viết: “Những bẫy này thường làm như những vật dụng hữu ích để gợi lòng ham muốn chiếm đoạt của binh sĩ”. Các loại vũ khí đó có muôn hình vạn trạng: Một biểu ngữ căng đường, một lá cờ cắm trên cây, một xác địch, một đống củi, một bình xăng, một bóng cây mát mẻ, một bến tắm, một con thuyền lơ lửng bên sông… cũng có mìn bẫy gài sẵn. Chĩnh nước mắm, lon cô-ca, chiếc xe đạp dựng ở bên đường, bao thuốc lá, hộp quẹt, hộp trà, chiếc bút máy, cánh cửa, dây phơi, kẹp áo… dù được đặt trong nhà, ngoài ngõ trong đó cũng là mìn cũng có thể tiêu diệt địch bất cứ lúc nào. Nhân dân ta không chỉ sản xuất ra vũ khí mà còn sáng tạo ra cách đánh độc đáo từ loại vũ khí đó. Điều lạ lùng là mìn bẫy có thể diệt máy bay trên trời, chông có thể diệt phi công và lính dù… nhưng đó là sự thật ở Việt Nam. Biết được quy luật mỗi khi địch càn, địch đổ quân bằng máy bay ở những bãi đất trống, dân quân du kích dùng bốn cọc tre cắm xuống đất ở bốn góc, đầu mỗi cọc tre có một hộp làm bằng thiếc. Trái lựu đạn được rút chốt an toàn và đặt trong bốn hộp thiếc, dây bẫy được cột chặt chéo thành hình chữ X nối các trái lựu đạn với nhau. Lựu đạn sẽ rơi và phát ra tiếng nổ khi trực thăng chạm phải dây bẫy. Ngoài ra, du kích Nam Bộ còn dùng mìn định hướng được gắn ngòi gạt gài ngửa trên cây, máy bay trực thăng của địch bay thấp lùng sục Việt cộng, cánh quạt trực thăng làm lay động que gạt, thế là mìn nổ, máy bay tan xác.

Các loại vũ khí tự chế (dao, mác, lao…).
Các loại vũ khí thô sơ, tự tạo, ngày càng được cải tiến, nâng cao chất lượng, có hiệu quả, có sức công phá lớn, phù hợp với nhiệm vụ tác chiến ngày càng phát triển cao tại mỗi đơn vị, mỗi địa phương và luôn làm cho kẻ địch bất ngờ. Quân giới nhân dân Việt Nam từ thôn xã, đến huyện, tỉnh không chỉ sản xuất cá loại vũ khí thông thường như mìn, lựu đạn cung cấp cho các lực lượng vũ trang đánh địch, mà còn nghiên cứu cải tiến các loại vũ khí của các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ cho ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các loại vũ khí thu được của địch làm thành các loại vũ khí có công phá mạnh. Súng AK bắn đạn AT; đạn cối 75mm, 81mm làm thành đạn phóng; đầu pháo 155mm thu của địch làm thành thủy lôi; bom bi, bom dứa của địch thu được làm thành mìn treo, mìn gài; thiết kế chế tạo bệ phóng đơn giản, gọn nhẹ, có thể mang vác được để phóng đạn phản lực từng quả từ dàn rốc-két… Đó là những bằng chứng sinh động về tinh thần và trí tuệ, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Lựu đạn vỏ bằng xi măng, sản xuất những năm 1948-1950, vũ khí trang bị cho du kích đánh địch càn quét trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Để có được vũ khí thô sơ, tự tạo phong phú và độc đáo, quân và dân ta đã phải anh dũng hi sinh, lao động quên mình và phát huy cao độ sức sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường. Trong hoàn cảnh kháng chiến, trước nhu cầu trang bị đủ vũ khí cho toàn dân đánh giặc, chúng ta chế tạo vũ khí bằng các công cụ thô sơ, phổ thông, đó là những dụng cụ sử dụng trong sinh hoạt như dao, kìm, búa, cưa, đục, nồi hai đáy nấu thuốc, khuôn máy ép thuốc nổ… Các loại vũ khí thô sơ, tự tạo theo cách gọi của ta là vũ khí địa phương, được chế tạo theo kinh nghiệm thủ công, đặc điểm của công nghệ này là vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa sáng tạo để luôn có vũ khí thích hợp với cách đánh ở từng chiến trường.

Súng “ngựa trời” sản xuất từ năm 1956, dùng phóng các mảnh kim loại, thủy tinh, đá vụn… để sát thương địch.
Nguồn nguyên liệu không nhiều, không đúng chủng loại, công cụ chế tạo không chuyên dụng, nên việc sản xuất vũ khí của ta luôn được các xưởng nghiên cứu thay đổi phương pháp sản xuất cho phù hợp với nguyên liệu tự kiếm, tự chế. Quy trình chế tạo vũ khí không giống nhau nên các loại vũ khí thô sơ, tự tạo do Việt Nam sản xuất rất phong phú, đa dạng về chất liệu, kích thước, hình dạng, tính năng sử dụng cũng như đặc điểm kỹ thuật.

Quân và dân Việt Nam dùng lựu đạn lép của địch để chế tạo lựu đạn (1968).
Mang đặc trưng của từng vùng, miền nên tên gọi của các loại vũ khí thô sơ, tự tạo cũng rất phong phú. Tên mỗi loại được gọi theo tên chung của cá địa phương như chông, mìn, lựu đạn…, nhưng mỗi địa phương, mỗi vùng đều gọi theo tên riêng, tên gọi theo địa phương, theo hình dạng, cấu tạo, theo tính năng tác dụng, theo nơi bố trí.

Pháo phản lực ĐKB được cải tiến từ BM-21 sử dụng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ của quân và dân ta.
Các loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc phát triển có sự kế thừa kinh nghiệm của cha ông, được phát triển nâng tầm cao hơn về kỹ thuật, mang đặc trưng riêng của mỗi vùng miền, được sử dụng với nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam đem lại hiệu suất chiến đấu cao. Các loại vũ khí do Việt Nam sản xuất mặc dù còn nhiều hạn chế về kỹ thuật nhưng đã phát huy tác dụng, có hiệu quả thiết thực, góp phần cùng toàn dân, toàn quân đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi. Chiến thắng của quân và dân ta trong Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối. Vũ khí thô sơ, tự tạo không chỉ là sản phẩm của ý chí tự cường, trí thông minh, óc sáng tạo của quân và dân ta, mà còn phản ánh một cách sâu sắc đường lối, nghệ thuật quân sự của Việt Nam.
Lê Thị Huệ (tổng hợp).
Nguồn tham khảo:
- Tổng cục Chính trị, Bảo tàng Quân sự Việt Nam. Sưu tập vũ khí thô sơ, tự tạo Việt Nam trong chiến tranh giải phóng (1945- 1975). NXB Quân đội Nhân dân, 2009.
- Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam. NXB Quân đội Nhân dân.