Thứ Ba, 13/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

09/10/2014 14:34 1 12331
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Nếu lấy mốc từ khi Lý Thái Tổ (974 - 1028) quyết định rời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La năm 1010, và đặt tên thành Thăng Long thì thủ đô Hà Nội đã có lịch sử ngàn năm tuổi. Việc rời đô là thể theo nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước thời bấy giờ. Và cũng kể từ thời điểm đó, Thăng Long - Hà Nội đã trở thành trung tâm kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của cả nước.

Trải qua các thời kỳ lịch sử đất và người Thăng Long đã chứng kiến bao thăng trầm, thịnh suy, thay đổi của đất nước. Sử sách còn ghi lại nhiều dấu tích khẳng định rằng cư dân Thăng Long đã có từ rất lâu đời. Từ thời chống Bắc thuộc cho đến thời Đinh – Tiền Lê, đất Thăng Long đã được khai khẩn, mở mang thêm. Dân cư ở đây ban đầu sinh sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá. Sau đó xuất hiện các làng nghề thủ công, hình thành các cơ sở buôn bán.

Thủ đô Hà Nội có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đẹp, ẩn hiện, đan xen giữa những không gian cổ kính, lãng mạn như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, vùng ven sông Hồng…Trong hệ thống dày đặc những di tích văn hóa, lịch sử nổi tiếng ở Hà Nội có những nơi khiến người ta nhớ về dù có ở bất cứ nơi đâu khi xa Hà Nội. Và có những địa danh chứa đựng dấu ấn thiêng liêng về một Thăng Long ngàn năm văn hiến. Trong đó có “Tứ Trấn Thăng Long” - bốn ngôi đền thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ 4 phương huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long, che chở, bảo vệ cho cho kinh thành Thăng Long xưa, Thủ đô Hà Nội ngày nay luôn được bình yên.

“Thăng Long Tứ Trấn” gồm bốn ngôi đền: Đền Bạch Mã - trấn phía Đông; Đền Voi Phục - trấn phía Tây; Đền Kim Liên - trấn phía Nam; Đền Quán Thánh - trấn phía Bắc. Mỗi ngôi đền thờ một vị thần gắn với những truyền thuyết mang ý nghĩa khác nhau: thần Long Đỗ thờ ở đền Bạch Mã, thần Linh Lang thờ ở đền Voi Phục thần Cao Sơn thờ ở đền Kim Liên, và thần Trấn Vũ thờ ở đền Quán Thánh.

“Thăng Long Tứ Trấn” được xây dựng từ rất sớm, gắn liền với việc ra đời kinh đô Thăng Long thời nhà Lý từ những năm 1010. Trải qua nhiều thời kỳ còn được tôn là “Thượng đẳng phúc thần”. Xưa, “Thăng Long Tứ Trấn” là nơi diễn ra các lễ hội Xuân, là nơi nhà vua chọn để dâng hương dịp đầu năm cầu cho quốc thái dân an, bốn mùa tươi tốt. Và truyền thống tốt đẹp đó đã được tiếp nối cho đến tận ngày nay.

Trấn Đông - Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo hộ trấn giữ hướng Đông của Kinh Thành Thăng Long. Xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là số nhà 76 - 78 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Đền Bạch Mã xưa (Ảnh tư liệu).

Đền Bạch Mã ngày nay tại số 76 - 78. Hàng Buồm (Hoàn Kiếm, Hà Nội).

Sự tích và lịch sử

Thần Long Đỗ được thờ phụng tại đền Bạch Mã, còn gọi là Tô Lịch giang thần (thành hoàng Hà Nội gốc). Theo truyền thuyết, đây cũng là vị thần đã làm thất bại các pháp thuật của viên quan đô hộ thời Bắc thuộc là Cao Biền.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử ra đời cũng như sự tích liên quan đến ngôi đền Bạch Mã, Trấn phía Đông của thành Thăng Long. Trong cuốn “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên còn ghi lại nguồn gốc và thời điểm xây dựng đền thờ thần Long Đỗ. Câu chuyện này gắn liền với Cao Biền – viên quan Bắc triều tương truyền có nhiều tài phép, được phái tới nước ta.

“Việt điện u linh tập” chép rằng, năm 866, Khi đắp xong thành Đại La, Cao Biền bèn ra cửa Đông dạo chơi. Bỗng thấy gió nổi, mây mù, một người cao lớn mặc áo gấm cưỡi rồng ẩn hiện. Cao Biền thất kinh bèn nảy sinh ý lập bùa trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mộng thấy vị thần cao lớn ấy lại hiện ra khoan thai nói: “Ta là tinh anh ở Long Đỗ. Nghe tin ông đắp thành nên đến chơi. Việc gì phải trấn yểm?”. Tỉnh dậy, Cao Biền bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống đất để trấn yểm. Việc vừa làm xong, một trận cuồng phong nổi lên, vàng, đồng và bùa của Cao Biền bị đánh tan thành tro bụi. Cao Biền than thở: “Ta phải về phương Bắc mất thôi!” rồi lập tức cho người lập đền thờ thần Long Đỗ và phong làm “Đô phủ thành hoàng thần quân”. Quả nhiên, sau đó ít lâu, Cao Biền bị triệu về cố quốc và phải chết tức tưởi.

Theo như vậy, đền Bạch Mã đã được xây dựng từ năm 866. Tuy nhiên, theo dòng lịch sử, tìm hiểu về “Thăng Long Tứ Trấn”, ta có thể tìm hiểu từ khi Vua Lý Thái Tổ dời đô, khi Thăng Long trở thành kinh đô của một nước độc lập.

Tương truyền: Sau khi dời đô ra Đại La và đổi tên thành Thăng Long, để tiện việc phòng bị giặc giã Vua Lý Thái Tổ bắt tay ngay vào việc đắp luỹ, xây thành. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là thành xây đến đâu, dù gia cố thế nào cũng vẫn bị sụp đổ.

Thấy việc dựng thành gặp khó khăn, vua Lý Thái Tổ bèn tới đền thờ thần Long Đỗ - được dân gian coi là thần cai quản chốn Đại La - cầu đảo, xin được phù trợ. Đêm đó, nhà vua nằm mộng thấy thần Long Đỗ nói rằng, cứ theo dấu chân ngựa mà đắp thì thành tất sẽ vững vàng. Thần vừa dứt lời, một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, khoan thai bước từ hướng Tây, rẽ qua hướng Đông một vòng rồi biến mất vào trong đền.

Hôm sau, Lý Thái Tổ cho đắp thành theo dấu chân thần bạch mã trong giấc mộng. Quả nhiên, thành Thăng Long không bị lún sụt nữa. Nhà vua cảm kích trước sự phò trợ của thần Long Đỗ, bèn ban sắc phong thần làm Quốc đô Định bang Thành hoàng Đại vương. Lại cho tạc một bức tượng ngựa trắng để thờ trong đền và cho gọi tên ngôi đền thờ thần là “Bạch Mã linh từ” nghĩa là đền thiêng ngựa trắng. Đền thờ thần Long Đỗ cũng có tên là Bạch Mã từ đó.

Kiến trúc tổng thể

Trải qua những biến thiên lịch sử, đền đã được sửa chữa nhiều lần, cuối thế kỷ XVII được tôn nền cũ và mở rộng. Năm 1781, chúa Trịnh cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc phường Hà Khẩu chung quanh đền Bạch Mã được "tạo lệ" (sắm lễ vật tế, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, sửa chữa đền thêm tráng lệ. Năm 1839, dựng Văn chỉ ở bên trái đền, dựng Phương đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Gần đây nhất, trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội, đền được tu bổ thêm một lần nữa trên cơ sở giữ nguyên kiến trúc cũ.

Đền Bạch Mã bao gồm các công trình: tam quan, phương đình, đại bái, thiêu hương, cung cấm và nhà hội đồng.

Tam quan được chia thành năm gian, gian giữa mở lối vào phương đình bằng cửa gỗ lớn. Phương đình được xây theo lối hai tầng tám mái đao cong sử dụng hệ thống “củng ba phương” đỡ góc mái. Nối giữa phương đình và đại bái là mái vòm hình mai cua.

Đại bái cũng được chia thành năm gian, nền lát đá xanh. Ở công trình này, ngoài bốn bộ vì dựng theo lối “chồng rường giá chiêng hạ bảy” còn có hai bộ vì hai bên đầu hồi được dựng theo lối “kẻ chuyền”. Riêng hai bộ vì gian giữa dẫn vào chính điện được chạm các hình tứ linh trên nền hoa văn xoắn, trên các đầu dư được chạm hình đầu rồng. Đại bái nối với thiêu hương cũng bằng mái “mai cua”.

Thiêu hươngcung cấm có kiến trúc gần giống nhau, mái vuốt góc đao cong hai tầng. Trong cung cấm là nơi đặt thờ tượng thần Bạch Mã.

Tượng Thần Bạch Mã được thờ trong đền.

Các đầu dư trên vì kèo dẫn vào chính điện đền Bạch Mã.

Hình ảnh người dân đến lễ đền Bạch Mã.

Hiện nay, đền Bạch Mã còn lưu giữ 15 văn bia cổ cùng nhiều hiện vật có giá trị khác. Trong đó còn giữ được 15 tấm bia chép sự tích đền và thần, nghi lễ cúng bái, các lần trùng tu tôn tạo… Với diện tích hơn 500m2, Đền Bạch Mã là một công trình đồ sộ còn được gìn giữ, bảo quản khá tốt. Tuy đền đã được trùng tu nhiều lần, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ kiến trúc các thời Trần, Lê, Nguyễn. Các cửa võng, các mảng điêu khắc trong đền mang giá trị nghệ thuật cao.

Lễ hội

Đền Bạch Mã có vị trí đặc biệt thuận lợi cho loại hình du lịch văn hóa, du lịch khám phá khu vực phố cổ Hà Nội. Không chỉ là nơi mang ý nghĩa lớn trong đời sống tinh thần, tâm linh của người dân Hà Nội, du khách thập phương mà còn là nơi cung cấp nguồn tư liệu quý để nghiên cứu, tìm hiểu về chặng đường ngàn năm lịch sử của mảnh đất Thăng Long - Hà Nội.

Hội Đền Bạch Mã được tổ chức vào ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch hằng năm, với những nghi thức tế lễ cùng một số hoạt động văn hóa khác như: hát ca trù, hát chèo, ngâm thơ, múa kiếm, múa đao… Đặc biệt, năm 2009, lễ hội được tổ chức theo đề án "Nghiên cứu tổ chức lễ hội truyền thống trong khu phố cổ và khu vực hồ Hoàn Kiếm" - một trong những công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội của nhân dân quận Hoàn Kiếm.

Đền Bạch Mã được Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 12/12/1986.

Trấn Tây - Đền Voi Phục

Trong tiềm thức dân gian, đền Voi Phục là tối linh từ thờ thần Linh Lang – vị thần được tin là đã giúp nhà vua coi sóc sự an bình cho phía Tây Hoàng thành. Nếu loại bỏ những yếu tố truyền thuyết, huyền bí, vị thần được người dân tôn kính thờ phụng trong đền là vị nhân thần có thật trong lịch sử, ông vốn là Hoàng tử - người đã giúp Vua Lý Thái Tông dẹp giặc Tống.

Trước đây, đền Voi Phục nằm giữa khuôn viên của công viên Thủ Lệ nên ít người nhận ra đây là một trong “Tứ Trấn Thăng Long” vang danh cùng Thủ đô ngàn năm văn vật. Vào dịp chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đền Voi Phục nằm trong chương trình tôn tạo những khu di tích gắn liền với Hoàng thành Thăng Long nên được UBND thành phố Hà Nội trùng tu trên quy mô lớn.

Đền được tách hẳn khỏi Công viên Thủ Lệ, toạ lạc trên gò Long Thủ giữa một khu đất rộng, xum xuê cành lá của những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, mặt tiền quay về hướng Hoàng thành, trông ra mặt hồ Thủ Lệ. Sau khi được tu bổ, giờ đây đi qua phố Kim Mã xuôi hướng Cầu Giấy về phía cuối hồ Thủ Lệ ta sẽ dễ dàng nhận thấy ngay bên tay phải là cổng đền Voi Phục sừng sững, thâm nghiêm. Theo sử sách ghi lại thì hồ nước phía trước đền Voi Phục vốn thông với hệ thống sông, hồ trong và ngoài thành. Thuyền rồng của nhà vua có thể đi từ trong thành mà ngự ra đền.

Cổng chính đền Voi Phục (Thủ Lệ).

Sự tích và lịch sử

Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ thần Linh Lang. Gọi là đền Voi Phục (Thủ Lệ) là để phân biệt với đền Voi Phục (Thụy Khuê) cũng thờ thần Linh Lang. Hai vị thần được thờ đều được sắc phong Uy Linh Lang nhưng có xuất xứ khác nhau. Đó là Uy Linh Lang thời Lý và Uy Linh Lang thời Trần. Tuy ở hai thời điểm khác nhau nhưng theo tương truyền cả hai vị thần đều giáng thế để giúp dân đánh giặc ngoại xâm. Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ thần Linh Lang Thời Lý. Ông vốn là Hoàng tử thứ tư của Vua Lý Thái Tông, mẹ là Hoàng phi họ Nguyễn (thường gọi là Hạo Nương, người làng Đồng Đoàn, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây – nay là làng Bồng Lai, xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội).

Linh Lang Đại vương sinh nhằm ngày 13 tháng Chạp năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân. Tương truyền, hoàng tử Hoằng Chân sinh ra đã có diện mạo khôi ngô, tuấn tú. Hoàng tử sống trong cung cùng mẹ ở khu Thị Trại (nay là phường Thủ Lệ). Từ thuở thiếu niên, Hoằng Chân đã tỏ rõ là người văn võ song toàn.

Thuở ấy, giặc Tống liên kết với quân Chiêm Thành kéo hàng vạn hùng binh bao vây chiếm đánh Đại Việt. Thế giặc khi ấy rất mạnh. Nhà vua bèn xuống chiếu vời nhân tài đánh giặc cứu nước. Khi sứ giả của nhà vua đi ngang qua Thị Trại, hoàng tử Hoằng Chân còn nhỏ tuổi nhưng đã nhờ sứ giả về tâu với Vua chuẩn bị cho mình một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi. Sứ giả vui mừng vội về tâu lại với nhà vua. Nhà vua bèn cấp đủ những thứ hoàng tử Hoằng Chân yêu cầu, ngoài ra còn cấp thêm hơn năm ngàn binh mã.

Nhận được đồ vật vua ban, Hoằng Chân bèn thét lớn: “Ta là thiên tướng”. Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để hoàng tử ngự lên. Trên lưng voi, hoàng tử Hoằng Chân chỉ đạo hơn năm ngàn binh mã vua ban và hàng trăm nghĩa sĩ của Thị Trại đánh thẳng vào nơi giặc đồn trú.

Giặc Tống thấy quân ta hùng dũng xông tới trong tiếng voi gầm ngựa hí thì hồn siêu phách tán bỏ cả gươm giáo mà chạy thoát thân. Thắng trận Hoàng Tử cùng ba quân được nhà Vua mời tiệc khao quân.

Sau buổi yến tiệc, nhà vua tỏ ý muốn truyền ngôi cho hoàng tử Hoằng Chân, nhưng hoàng tử không nhận. Sau đó ít lâu, hoàng tử Hoằng Chân lâm bệnh nặng. Nhà vua truyền ngự y đến cứu chữa cho ngài, nhưng bệnh tình không thuyên giảm, không lâu sau thì qua đời.

Nhà vua truy phong hoàng tử Hoằng Chân làm Linh Lang Đại vương, cho thờ ngay tại Thị Trại, đổi tên Thị Trại thành ra Thủ Lệ, lại xuống chiếu cho người dân làng ấy được hưởng “Hộ nhi sở tại”, tức là được miễn phu phen, tạp dịch muôn đời để chuyên tâm thờ phụng Linh Lang Đại vương.

Tượng thần Linh Lang.

Sau này, khi nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông và nhà Lê tiễu trừ Mạc Thị, các vị tướng xuất trận tới đền cầu đảo và đều giành thắng lợi. Vua Trần Thái Tông hàm ơn bèn sắc phong thêm 5 chữ: “Bình Mông Vương Thượng Đẳng”. Triều Lê Trung Hưng phong thêm 8 chữ: “Phối Đồng Thiên Địa – Vạn Cổ Lưu Truyền”. Trải qua các triều đại từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn sau này đều phong ngài làm “Thượng Đẳng Thần”.

Gắn liền với sự tích con voi phủ phục khi nghe tiếng thét của hoàng tử, ngôi đền được gọi là đền Voi Phục từ ấy. Ngày nay, ở cổng đền vẫn còn nguyên 2 bức tượng voi phủ phục hai bên, đời đời tưởng nhớ vị anh hùng đánh giặc cứu nước được nhân dân biết ơn phong thánh, thờ phụng muôn đời.

Tượng Voi phục hai bên cửa đền.

Kiến trúc tổng thể

Tương truyền, đền Voi Phục được khởi dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (năm 1065) đời vua Lý Thánh Tông trên một khu gò cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ - một trong 13 làng trại ở phía tây kinh thành Thăng Long. Cổng đền là cổng tứ trụ, như những trục vũ trụ đem sinh khí từ tầng trên truyền xuống trần gian. Hai bên cổng có bia hạ mã và đôi voi chầu phục (hiện mới được xây thêm nghi môn tứ trụ nữa, ở sát với đường lớn).

Đường lên sân đền có ba lối, chính giữa có 12 bậc đá rộng, nơi chỉ để rước kiệu trong ngày lễ, bình thường đi hai lối bên. Trước mặt lối giữa là một giếng vuông mang ý nghĩa tụ thuỷ tụ phúc, nơi xưa kia lấy nước cúng, nay giếng đã được sửa thành vuông. Ý nghĩa cầu nước và cầu no đủ còn được thể hiện ở đôi rồng mây "chạm tròn" bằng đá, một sản phẩm khoảng giữa thế kỷ XIX và đôi hổ phù gắn hai bên tường cửa chính được chạm nổi, mang nét chuẩn mực. Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Tại tòa này được đặt ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỷ XIX. Hậu cung cũng 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tượng đức Linh Lang Đại vương với nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trước pho tượng Ngài là một hòn đá lớn được đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu. Trong đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Đền Voi Phục đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần và ngôi đền hiện nay khang trang hơn so với ngôi đền cũ bị thực dân Pháp phá hủy năm 1947. Năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông cao 93 cm, đường kính miệng 70 cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hàng chữ Hán đúc nổi: "Tây trấn thượng đẳng". Ngày 10/8/2000, thành phố Hà Nội khởi công tu sửa lại Đền Voi Phục. Đợt tu bổ này tập trung chủ yếu vào khôi phục nhà Hữu Vu, hoàn chỉnh kiến trúc tổng thể cho khu di tích. Ngày 4/7/2009, Đền Voi Phục một lần nữa được trùng tu tôn tạo để hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đền Voi Phục được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962.

Lễ hội

Lễ hội đền Voi Phục là một sinh hoạt văn hoá thường niên, mang tính chất mở, với sự tham gia của thập phương, vượt ra ngoài không gian đất Thủ Lệ, ít nhất là vùng Thuỵ Khuê, Thủ Lệ, Vạn Phúc rồi vùng Thập tam trại và cả Bồng Lai (Đan Phượng - Hà Tây) - lễ hội chính của đền Voi Phục diễn ra vào ngày 9 và 10 tháng hai âm lịch, từng năm có thể kéo dài từ 3 tới 10 ngày tuỳ theo sự đóng góp của dân, đáng kể nhất là việc rước kiệu và một số tục lệ khác.

Trong lịch sử, đền Voi Phục là trấn thiêng ở phía Tây thành Thăng Long, đền không chỉ liên quan trực tiếp với Kinh đô mà nó đã hội vào bản thân rất nhiều dòng chảy của tín ngưỡng dân gian để tồn tại với thời gian, hiện nay khó ai có thể nắm bắt được hết những ý nghĩa thiêng liêng của kiến trúc mang vẻ đẹp thánh thiện này, chỉ biết rằng, đền Voi Phục, từ nay sẽ luôn được tôn tạo xứng đáng, vì đó là một điểm sáng trong tinh thần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.

Nguyễn Thị Hữu (Phòng Truyền thông)

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Chia sẻ:

Bình luận

tran dung danh17/12/2016 20:28

Tìm hiểu về “Thăng Long Tứ Trấn” Dấu ấn của kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến (Phần 1)
Đề nghị tác giả ghi rõ sự liên hệ của 4 trấn. Theo tôi biết thời gian được xây dựng của 4 cái đền này chả ăn nhập gì với nhau và cũng không có điều nào chứng minh nó liên quan tới kiến trúc của Thăng Long thành. Ngu mà làm sữ thì đầu độc biết bao nhiêu thế hệ người Việt.

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 7721

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Chuyện ít biết về người đầu tiên dịch sắc lệnh Hoàng Sa

Chuyện ít biết về người đầu tiên dịch sắc lệnh Hoàng Sa

  • 08/10/2014 10:35
  • 2943

Ít ai biết người đầu tiên phát hiện ra sắc lệnh của vua Minh Mạng phái các binh phu ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa lại là cụ Dương Quỳnh – ông đồ già minh triết cuối cùng còn sót lại trên đảo Lý Sơn...