Thứ Ba, 18/11/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

14/09/2014 12:48 3650
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Để phục vụ công tác lập hồ sơ khoa học di tích, Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội đề nghị PGS.TS Phạm Mai Hùng viết chuyên đề về cầu Long Biên với nội dung: Phương án bảo tồn và phát huy giá trị di tích cầu Long Biên. Ông đã nhận lời và đổi tên chuyên đề thành: Phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích cầu Long Biên – Hà Nội cho đúng với nội dung khoản 10, điều 6, chương II của Thông tư Quy định về nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, số 09/2011/TT-BVHTTDL, ngày 14 tháng 7 năm 2011 của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ban Biên tập trân trọng giới thiệu bài viết của PGS.TS Phạm Mai Hùng đến quý độc giả.

I. Cầu Long Biên – tích tụ những giá trị biểu tượng của di sản kiến trúc, lịch sử, văn hóa tiêu biểu của thủ đô Hà Nội và hiện trạng của nó.

1.1. Cầu Long Biên – tích tụ những giá trị biểu tượng của kỹ thuật, công nghệ của sự trường tồn, của vẻ đẹp và của các giá trị lịch sử - văn hóa đại diện của nhân loại chứ không chỉ riêng có của Việt Nam, của Hà Nội.

Qua tư liệu lịch sử, chúng ta biết rằng: cầu thép vượt sông Hồng được Chính phủ Pháp đầu tư xây dựng. Khởi công ngày 13 tháng 9 năm 1898; Hoàn thành và đưa vào sử dụng ngày 28 tháng 2 năm 1902. Cây cầu này chính thức được mang tên: Cầu Paul Doumer (tên của viên/ngài Toàn quyền Đông Dương nhiệm kỳ 1897-1902). Người Hà Nội gọi cây cầu này là Cầu Đô Mỹ (phiên âm từ Doumer). Cầu sông Cái, cầu Bồ Đề, thông dụng hơn cả là cầu Long Biên.

Người dân đương thời tới xem khánh thành cầu Long Biên.

Cầu Long Biên những năm đầu thế kỷ XX.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Pháp đang ở thời kỳ hoàng kim của ngành công nghiệp sắt thép và những công trình xây dựng có kết cấu chủ yếu bằng thép. Nói cách khác, kỹ thuật xây dựng bằng sắt thép lúc đó đang là mốt thời thượng được ưa chuộng ở nước Pháp, điển hình nhất là tháp Eiffel. Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng, con sông quan trọng nhất góp phần tạo nên cả một vùng châu thổ rộng lớn mà trước khi có cầu Long Biên, người ta chỉ có một cách qua sông duy nhất là dùng thuyền. Cầu Long Biên cũng là cây cầu thép đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á bởi trước đó hầu hết các cây cầu được xây dựng trong khu vực này chưa phải là cầu thép. Hơn thế nó còn là cầu thép dài thứ hai trên thế giới lúc bấy giờ, chỉ đứng sau cầu Brooklyn bắc qua sông East-River của nước Mỹ.

Bảng kim loại gắn trên cầu khắc thời gian khởi công (năm 1899) và

hoàn thành (năm 1902) Người Pháp thời đó ca ngợi đây là “cây cầu nối liền hai thế kỷ”.

Cầu Long Biên do hãng Dayde & Pillé thiết kế. Về mặt kiến trúc và kỹ thuật xây dựng nó là một công trình tuyệt đẹp có giải pháp thiết kế kiểu giàn treo mà trên thế giới hiện chỉ còn 4 cái như vậy. Trong đó có cầu di sản Gustave Eiffel bắc qua sông Garonne ở thành phố Bordeaux. P. Doumer kể lại rằng: Tổng thể cầu Long Biên bao gồm một cây cầu bằng kim loại dựa trên những mố và trụ cầu xây kiên cố. Chiều dài của cầu giữa những mố ở hai bờ sông là 1.680m. Mố giữa có 19 nhịp cầu gắn vào nhau, tạo thành những dầm thép theo kiểu được gọi là Cantilever. Hai mươi móng dựa xây kiên cố của mố và trụ cầu, muốn tựa vào nền đấy cứng đã phải đào xuống tới độ sâu 30m dưới mặt nước lúc thấp nhất của sông Hồng. Chúng được xây cao lên 13,50m bên trên mức nước này để toàn bộ chiều cao là 43,50m. Không gian ở giữa những khung sườn chính của cầu được dành cho đường xe lửa đi qua, những lối đi trên cầu từng quãng một có những chỗ rộng nhô ra. Bên bờ hữu ngạn của dòng sông, ngay trong thành phố Hà Nội, cây cầu được kéo dài bởi một đoạn cầu cạn xây bằng gạch đá dài hơn 800m. Do vậy toàn bộ chiều dài của công trình lên tới 2.500m… Nó là tác phẩm của những kỹ sư, đốc công, trưởng thợ người Pháp và công nhân người An Nam… Ba năm sau khi khởi công, chiếc cầu đã được hoàn thành. Đến gần nhìn, bộ khung sườn bằng thép của nó thật đồ sộ. Chiều dài của nó tưởng chừng như không xác định được. Nhưng khi nhìn ngắm xa từ dòng sông thì cây cầu trong tổng thể của nó chỉ như một tấm lưới mắt cáo nhẹ, một dải thêu ren vươn lên bầu trời. Có thể khẳng định: Cầu Long Biên là biểu tượng của kỹ thuật, công nghệ, của vẻ đẹp. Nó có thể được coi là “người cùng thời” với tháp Eiffel ở Paris hay cầu thép Gustave Eiffel ở Bordeaux. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà người ta ví cầu Long Biên là “Thép Eiffel nằm ngang’ trên sông Hồng.

Cầu Long Biên khi mới xây xong.

Cầu Long Biên là cây cầu vắt qua lịch sử hiện đại của Việt Nam nói chung, của Hà Nội nói riêng qua các giai đoạn: đấu tranh giành độc lập, kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cầu Long Biên là nhân chứng, chứng kiến sự kiện đau thương của nạn đói năm Ất Dậu (1945), với hàng trăm, hàng ngàn người chết đói nằm dày đặc trên cầu. Hơn một năm sau, đêm ngày 17 rạng sáng ngày 18 tháng 2 năm 1947, cầu Long Biên âm thầm chứng kiến sự kiện lịch sử thần kỳ: Trung đoàn Thủ đô và một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ vượt sông Hồng (nơi đó chỉ cách cầu một tầm với) an toàn tuyệt đối, khi mà trên cầu lính viễn chinh Pháp lăm lăm tay súng, nện gót giày đinh tuần tra liên tục mà không hề hay biết. Chín năm sau đó, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết liễu ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, cầu Long Biên lại ghi dấu chân những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng qua cầu để xuống Hải Phòng, vĩnh viễn rời Việt Nam và đón chào đoàn quân chiến thắng về tiếp quản Thủ đô tháng 10 năm 1954.

Những người lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên,

kết thúc cuộc chiến ở ViệtNam,tháng10/1954.

Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, cầu Long Biên trở thành mục tiêu trọng yếu để bắn phá, để triệt hạ của không lực Hoa Kỳ, tuy nhiên sức mạnh, sức công phá của bom, đạn Mỹ không cản được quyết tâm của quân dân Hà Nội. Địch phá, ta sửa, ta đi. Kết thúc chiến tranh, cầu Long Biên là cây cầu sắt duy nhất còn lại trên tuyến quốc lộ IA. Vậy là cầu Long Biên là chứng nhân của lịch sử, và bản thân nó cũng trở thành lịch sử.

Quân và dân Hà Nội vận chuyển pháo vào trận địa bảo vệ cầu Long Biên, năm 1972.

Về văn hóa, cầu Long Biên là cây cầu – ký ức một phần hồn của Hà Nội, của người Hà Nội mà mỗi khi đi xa, nhớ Hà Nội, người ta nhớ về nó. Đó là ký ức của một thời được xây dựng nó của các bác công nhân, ký ức về một thời gian chở hàng qua cầu để kiếm sống, ký ức về những trận chiến đấu quả cảm để bảo vệ cầu v.v…

112 năm đã trôi qua nhưng giá trị của quá khứ vẫn lắng đọng trên những nhịp cầu còn lại, giá trị biểu trưng của cầu Long Biên vẫn mãi trường tồn. Vẻ đẹp và các giá trị lịch sử văn hóa quá khứ cũng như hiện tại hẳn nhiên là di sản văn hóa góp phần tạo nội lực cho sự phát triển của Hà Nội trước mắt, cũng như lâu dài.

1.2. Hiện trạng của cầu Long Biên

Hiện tại, cầu Long Biên không còn giữ được sự kỳ vĩ, oai hùng, cũng như vẻ đẹp kiều diễm, vẻ đẹp “thanh nhã, êm đềm” của nó 112 năm về trước. Không còn đủ cơ sở để chúng ta cảm nhận “chiều dài của nó tưởng chừng như không xác định được. Tương tự thế, không còn đủ cơ sở để cảm nhận được rằng hình dáng lên xuống, uốn lượn của các nhịp cầu như một con rồng trên mặt nước sông Hồng của thủ đô ngàn năm văn hiến. Bởi hiện nay, cầu Long Biên chỉ còn một nhịp kép phía Bắc, một nhịp kép phía Nam cộng với một nửa nhịp kép giữa sông còn giữ được vóc dáng nguyên bản. Sáu nhịp cầu bị bom, đạn của Không lực Hoa Kỳ bắn phá, đánh sập được thay thế bằng các đầu bám vĩnh cửu có khẩu độ ngắn, đặt trên các trụ xây mới và cũng chẳng vẹn toàn, không thanh sắt nào không có vết đạn bom. Các hệ dẫn dọc, ngang, giằng gió, chân thanh treo, thanh xiên, nút vặn chủ đều bị mục, rỉ nặng, mặt bị bong thủng…

Ở tuổi 112, cầu Long Biên như một cụ lão sức cùng lực kiệt, vậy mà vẫn phải mang vác nặng, phải chịu đựng sự đè nén quá lớn của các chuyến tàu hỏa chở đầy ắp hàng hóa, hành khách, của các dòng xe đạp, xe máy nhiều như kiến qua lại ngày đêm. Cầu Long Biên như một thương binh nặng ngoại hạng, đã mất mát một phần lớn xương, thịt do bị Không lực Hoa Kỳ bắn phá 14 lần. Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965-1968) cầu bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần, phá hỏng 7 nhịp và 4 trụ cầu. Lần thứ hai (1972) cầu Long Biên lại bị ném bom 4 lần, phá hỏng 1.500m cầu và hai trụ lớn bị cắt đứt. Do bị nắng, gió, mưa bão bào mòn, do di chứng của chiến tranh để lại khiến cho mạng sống của cầu Long Biên hiện nay thật mong manh và như “ngọn đèn dầu đặt trước phong ba bão táp”. Cầu có thể sập đổ bất kỳ lúc nào. Đó là thực trạng không mấy vui của cầu Long Biên hiện nay và người Hà Nội chẳng một ai an lòng, chẳng một ai muốn chứng kiến cảnh nó bị sụp đỏ, hoặc di rời đi vị trí khác để bảo tồn ở dạng bảo tàng. Mất cầu Long Biên nghĩa là mất một phần ký ức về Hà Nội, mất một phần lịch sử, văn hóa của Hà Nội và của cả nước.

PGS. TS. Phạm Mai Hùng

(Ủy viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội Di sản văn hóa Việt Nam)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Doumer. P. L’Indonchine Francaise: Souvernirs, Vuibert, Paris, 1905.

2. Dương Kinh Quốc. Việt Nam những sự kiện lịch sử. Nxb Khoa học xã hội. HN, 1981. Tập I, II.

3. Đào Thị Diến (Chủ biên). Hà Nội qua tài liệu và lưu trữ 1873-1954. Nxb Hà Nội. HN, 2010. Tập

4. Phan Huy Lê (Chủ biên). Lịch sử Thăng Long, Hà Nội. Nxb Hà Nội. HN, 2012. Tập II

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 9076

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Bảo tàng Quang Trung và Điện thờ Tây Sơn

Bảo tàng Quang Trung và Điện thờ Tây Sơn

  • 10/09/2014 10:18
  • 20068

Từ thành phố Quy Nhơn theo QL 19 về hướng tây hơn 42 km là thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, quê hương của 3 anh em người anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ; cũng là nơi phát sinh phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung và điện thờ Tây Sơn ở thôn Kiên Mỹ là nơi lưu giữ khá đầy đủ những di tích hiện vật có liên quan tới phong trào Tây Sơn.