Khi nhắc đến địa danh Vĩnh Linh, chúng ta thường nghĩ ngay đến hình ảnh con sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, Cột cờ giới tuyến cùng những chiến công chói lọi làm rạng rỡ trang sử vàng của dân tộc.
Nhưng ít người biết được nơi đây, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã từng tồn tại một hệ thống Hầm - Hào - Địa đạo liên hoàn dày đặc, một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, là công trình có một không hai trên đất nước Việt Nam.
Cầu Hiền Lương trong thời kỳ chiến tranh.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (20-7-1954), đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Bắc - Nam với hai nền chính trị khác nhau, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Từ đó Vĩnh Linh trở thành đầu cầu giới tuyến, là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng là hậu phương trực tiếp, làm bàn đạp để các lực lượng cách mạng tiến vào Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đế quốc Mỹ với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam đã tiến hành một cuộc đánh phá hủy diệt hết sức dã man chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh thế giới lên khu vực Vĩnh Linh. Chúng huy động 60.000 lần máy bay các loại, trong đó gần 4.000 lần pháo đài B52, dội xuống Vĩnh Linh, 560.000 tấn bom. Hàng trăm nòng pháo cỡ từ 105 đến 406mm đặt bên bờ Nam và các hạm đội tàu ngoài Biển Đông bắn 727.000 quả đại bác.
Để đối phó với sự tàn bạo của kẻ thù, với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”, “tất cả để đánh thắng”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “một tấc không đi một li không rời”, quân và dân Vĩnh Linh đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chịu đựng hy sinh kiên cường bám trụ, giữ vững vị trí tiền tiêu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm chỗ dựa cho cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.
Hội họp trong lòng địa đạo.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Đảng ủy Vĩnh Linh đã tiến hành chỉ đạo đào hầm. Từ tháng 7-1966 đến tháng 10-1968, và từ tháng 4 đến cuối năm 1972 cuộc đọ sức giữa ta và địch bước vào giai đoạn hết sức quyết liệt. Để cứu nguy cho những thất bại về quân sự trên chiến trường, đế quốc Mỹ điên cuồng đưa chiến tranh phá hoại lên tầm cao mới với sự hủy diệt khủng khiếp. Hàng vạn tấn bom đạn, chất độc hóa học đã trút xuống Vĩnh Linh. Tính bình quân mỗi cây số vuông phải chịu 600 tấn bom và 800 quả đạn pháo.
Trước tình hình đó, để đảm bảo cho cuộc chiến đấu, bảo vệ được tính mạng, tài sản cũng như đời sống của nhân dân, yêu cầu về vấn đề phòng tránh được đặt ra một cách cấp bách. Đảng ủy Vĩnh Linh đã kịp thời đề ra những chủ trương lớn có tác dụng đánh bại âm mưu hủy diệt của chúng: công sự hóa toàn khu vực, biến Vĩnh Linh thành quê hương của hầm hào, địa đạo.
Một khẩu hiệu lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Vĩnh Linh trong những năm đánh Mỹ: “Đảng vững, dân vững, hầm vững”; “Đào hầm, đào hầm nữa! Chừng nào bên kia sông Bến Hải còn Mỹ ngụy, Vĩnh Linh ta còn phải đào hầm!”.
Với tinh thần đó, một loại hầm hào được hình thành. Đâu đâu cũng có hầm, có hào với nhiều chủng loại, chức năng khác nhau. Hầm để ở, hầm trạm xá, hầm hợp tác xã mua bán, hầm bệnh viện, hầm trường học, hầm nhà trẻ, hầm để chăn nuôi, hầm để thóc gạo… và còn cả hầm dự trữ. Hầm này để chỗ cho bộ đội đi qua có chỗ nghỉ lại, nếu quân địch tràn sang, đó là nơi dấu quân trước khi xuất kích đánh bộ binh địch. Ngoài ra còn có loại “hầm lưu động”. Đó là những bộ khung bằng tre kết cấu theo hình chữ A. Lúc cày cấy ở các cánh ruộng nước, không đào hầm được, người ta đưa nó ra đồng dựng rải rác gần chỗ làm việc, đắp bên ngoài một lớp đất mỏng hoặc rơm rạ xung quanh để tránh tạm, cày cấy xong lại dỡ hầm đem về nhà.
Hệ thống hầm hào của Vĩnh Linh cũng không ngừng thay đổi để chống trả có hiệu quả hơn. Từ cái hầm tròn một người sơ sài đến cái hầm bằng có cái nắp, rồi hầm chữ A. Từ chỗ làm hầm để phòng xa đến lúc cái hầm là nơi ẩn nấp, nơi ở, nơi làm việc.
Hầm chữ A.
Mỗi cái hầm là một ngôi nhà thu nhỏ được xây dựng dưới mặt đất. Hầu hết nhân dân Vĩnh Linh đã dỡ nhà để làm hầm. Mỗi gia đình không chỉ có một hầm mà là cả một hệ thống liên hoàn. Từ ngoài giao thông hào bước vào gian hầm đầu tiên coi như phòng khách. Gian hầm này rộng từ 4 đến 6m2, cao 2m. Trong hầm có bàn ghế cho con ngồi học, có chiếu trải cho khách ngồi, có dán tranh ảnh, có loa truyền thanh. Vách hầm ken ván, nóc hầm lát gỗ cột tròn sát nhau. Bên trên đổ đất dày hàng thước, nện chặt. Tiếp hầm khách là hầm ngủ, đào sâu hơn, xây theo lối chữ A, nhỏ hơn nhưng kiên cố hơn. Bên cạnh đó là hầm nhà bếp, hầm nhà tắm, hầm nhà vệ sinh, hầm gà lợn, trâu bò...
Ban đầu, mỗi cái hầm là một nơi ẩn nấp khép kín, dần dần nó mở ra nối liền với hệ thống hầm hào trong toàn khu vực. Người dân có thể đi khắp 11 xã đồng bằng Vĩnh Linh mà không nhô đầu lên khỏi mặt đất. Một hệ thống giao thông hào sâu từ 1m50 đến 1m70, rộng trung bình 1m, nối liền nhà này sang nhà khác, đội này sang đội khác, xã này sang xã khác, rồi từ nhà ra ruộng, từ ruộng lên nương.
Cả khu vực Vĩnh Linh là cả một hệ thống hầm hào chằng chịt, dày đặc nối liền với nhau. Từ năm 1965 đến 1968, Vĩnh Linh đào được 91.840 chiếc hầm và 2.098km đường hào. Đây không chỉ là nơi ẩn nấp, tránh bom địch mà còn là nơi xuất kích đánh bộ binh địch.
Sự kỳ diệu của bàn tay và khối óc người dân Vĩnh Linh đó đã làm nên một hệ thống liên hoàn giữa Hầm - Hào - Địa đạo, tạo thành một lá chắn thép vững chắc không có gì xuyên thủng được.
Giao thông hào trên mặt đất.
Vĩnh Linh bắt đầu đào địa đạo vào giữa năm 1966, khi mà trước đó, cuối tháng 5-1966, ông Trần Nam Trung từ Trung ương Cục Đảng Cộng sản Việt Nam ở miền Nam trên đường ra Bắc công tác đã ghé thăm Đảng ủy Vĩnh Linh nhận thấy phong thổ ở phía Đông Vĩnh Linh có thể đào được địa đạo, đồng chí liền gợi ý vấn đề đào địa đạo như ở Củ Chi. Đảng ủy Vĩnh Linh giao việc này cho Bộ Chỉ huy quân sự, Bộ Chỉ huy lại giao cho một số cán bộ chuyên trách về hầm hào nghiên cứu. Sau một thời gian bàn bạc, học hỏi kinh nghiệm các cụ thợ đào giếng, thợ đấu nhóm, cán bộ này xin chọn Vĩnh Giang đào thí điểm. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Giang là người bổ nhát cuốc đào chiếc địa đạo đầu tiên của Vĩnh Linh. Hai tháng sau, một địa đạo dài 80m, sâu 7m hoàn thành. Nhận thấy sự ưu việt an toàn hơn của địa đạo so với hầm hào, 9-1966, Đảng ủy Vĩnh Linh thành lập ban chỉ đạo đào địa đạo gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Khiếu - Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính khu vực làm trưởng ban. Từ đó một phong trào đào địa đạo diễn ra sôi nổi khắp toàn vùng.
Đào địa đạo là cả một kỳ công. Sau khi chọn chỗ, chọn đất, công việc trước tiên là xác định đường trục chính của địa đạo. Trên đường trục chính phải đào những cái giếng thẳng đứng đường kính khoảng 2m và chiều sâu của địa đạo. Mỗi cái giếng cách nhau khoảng trăm thước. Khó khăn, vất vả, nặng nhọc nhất là đào một đường hầm xuyên lòng đất nối các giếng đó lại với nhau. Những người đào phải định hướng làm sao để từ hai phía tiến tới gặp nhau tại một điểm. Mỗi tổ đào đường hầm có hai chục người nhưng mỗi kíp chỉ hai người xuống giếng. Hai người cũng chỉ có một người đào, người kia chuyển đất từ phía trong ra ngoài cho người ở trên quay tời kéo lên. Từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, những người đào địa đạo như những chú ong cần mẫn làm nên những công trình tuyệt tác trong lòng đất.
Những tuyệt tác đó được làm nên bởi hai bàn tay không, với những dụng cụ thô sơ tự tạo. Không có máy ngắm họ làm những que vòng cung cố định theo đường vòng lên mặt đất, rồi đào theo những đường cong đó. Không có máy móc đo mặt phẳng, họ lấy nước đổ vào chai làm thước đo. Đo độ sâu, họ dùng dây buộc vào hòn đá làm dây dọi. Không có cần trục để trục đất từ độ sâu 15, 20, 25m họ làm trục quay tay, kiếm dây cáp làm dây tời, gò ống pháo sáng làm gàu xúc đất. Không có đèn điện, đèn pin chiếu sáng, họ dùng đóm tre, đuốc nhựa cây, đuốc cao su, mỡ động vật thắp sáng mà đào.
Chỉ với đôi bàn tay và khối óc, cùng lòng quyết tâm, lòng căm thù giặc sâu sắc, quân và dân Vĩnh Linh đã biến những điều không thể thành có thể. Theo số liệu thống kê, toàn bộ các xã của Vĩnh Linh nằm trên vùng đất đỏ đều có địa đạo. Tổng cộng chiều dài lên đến 100km.
Một trong những địa đạo hoàn chỉnh nhất là địa đạo Vịnh Mốc. Địa đạo này là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê được xây dựng và kiến tạo dưới lòng đất ở độ sâu từ 10 đến 23m. Vào cuối năm 1967, do yêu cầu đảm bảo sự trú ẩn an toàn cho nhân dân và lực lượng vũ trang để phối hợp tác chiến, và nhất là có cơ sở để cất giấu hàng hoá, vũ khí cho đảo Cồn Cỏ. Địa đạo Vịnh Mốc ra đời trên cơ sở liên kết 3 hệ thống tiểu đạo của đồn công an 140, Sơn Hạ và Vịnh Mốc. Tổng chiều dài của hệ thống đường hầm là hơn 2000m. Địa đạo có trục đường chính dài 768m, cao từ 1,5 đến 1,8m, rộng từ 1 đến 1,2m. Từ trục chính toả ra nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa ra vào. Địa đạo có tất cả 13 cửa, gồm 7 cửa mở ra phía biển, 6 cửa thông lên đồi. Tại các cửa đều có khung gỗ chống đỡ. Hai bên trục đường cứ khoảng cách từ 3 đến 5m thì khoét lõm sâu thành từng ô nhỏ, mỗi ô là một hộ gia đình.
Sơ đồ cấu trúc làng địa đạo Vịnh Mốc.
Địa đạo được cấu tạo thành 3 tầng: tầng thứ nhất sâu 12m, là nơi sinh sống của nhân dân; tầng thứ hai cách mặt đất 15m, là nơi đóng trụ sở của Đảng ủy, Ủy ban và Ban Chỉ huy các lực lượng vũ trang; tầng cuối cùng sâu 23m, chủ yếu là nơi làm kho hậu cần, cất và giữ hàng hoá, vũ khí.
Trong địa đạo có đầy đủ những công trình thiết yếu đảm bảo an toàn và phục vụ cho đời sống như trạm gác, bệnh xá, nhà hộ sinh, nhà bếp, nhà vệ sinh và nhiều lỗ thông hơi được bố trí một cách hợp lý và khoa học. Đặc biệt trong lòng địa đạo còn có 3 giếng nước và một hội trường có sức chứa trên 50 người là nơi hội họp, xem chiếu bóng, xem biểu diễn văn nghệ...
Giếng nước trong lòng địa đạo.
Địa đạo Vịnh Mốc là một tổng thể cấu trúc độc đáo, được xem như một toà lâu đài cổ. Đây vừa là nơi trú ẩn an toàn cho nhân dân, vừa là nơi cố thủ chiến đấu cho bộ đội và cũng là một kho hậu cần phục vụ chiến đấu tại chỗ, chi viện cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam. Đó là kỳ tích lao động của 18.000 ngày công gian khổ dưới mưa bom, bão đạn để đào và vận chuyển hơn 60.000m3 đất đá của quân và dân Vĩnh Thạch.
Hệ thống Hầm - Hào - Địa đạo ở Vĩnh Linh từ khi ra đời cho đến nay đã gần 50 năm, nhưng những giá trị và ý nghĩa lịch sử của nó ngày càng in đậm trong tâm khảm của người Việt Nam và bạn bè thế giới. Đây là những công trình phòng tránh có hiệu quả nhất trong điều kiện chiến tranh ác liệt; chứng minh cho sức mạnh của chiến tranh nhân dân; biểu tượng sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí kiên cường và quyết tâm sắt đá của người dân Vĩnh Linh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hệ thống Hầm - Hào - Địa đạo Vĩnh Linh là công trình có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học - công nghệ, khoa học quân sự… đặc biệt xuất sắc của nhân dân Vĩnh Linh nói riêng và của nhân dân Quảng Trị nói chung cần ghi nhận và tôn vinh.
Lê Khiêm (tổng hợp)
Nguồn:
- Nguyễn Tiến Lực, “Hệ thống Hầm - Hào - Địa đạo ở Vĩnh Linh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Nghiên cứu lịch sử, 2010, Số 5, tr. 13-18.