Ngày 27 tháng 4 năm 2014, tôi nhận được giấy mời khai mạc phòng trưng bầy này, nhưng do bận một số công việc, không đến được, với sự tiếc nuối, băn khoăn và tự cật vấn. Lấy đâu ra để có một phòng trưng bầy, dẫu khiêm tốn hơn một trăm mét vuông tại số 1 Phạm Ngũ Lão?
Hối thúc, gần một tuần sau tôi đến thăm với sự cởi mở qua những nụ cười của các đồng nghiệp gái, trai, trẻ, già chào đón. Dẫu vậy, tôi muốn đi một mình để có thời gian xem kỹ và may chăng, có thể hiểu được ngọn nguồn một điều gì đó, từ thông tin của những di vật mà khi còn làm việc, tôi chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ hoặc thờ ơ, loáng thoáng do những đam mê khác cuốn hút hơn.
Tôi ngạc nhiên, số lượng và loại hình phong phú với tượng người, tượng thú, linh vật của gốm không men, có men, men nhiều màu, men rạn được trưng bầy khá hiện đại với ánh sáng và thư pháp bắt mắt thu hút được khách tham quan. Tôi cũng hài lòng với những nội dung của bản trích, của etiket ngắn gọn, súc tích và tương đối chuẩn xác.
Tôi cũng không ngờ, sự tản mát bấy lâu nay trong các kho tàng, trên phòng trưng bày đã được tập hợp lại thành sưu tập, cũng cho người thưởng ngoạn thấy một thông điệp rằng, tượng tròn Việt Nam chất liệu gốm sứ, dẫu có hiếm hoi, ít ỏi, nhưng cũng tạo nên một phong cách nghệ thuật giống như bao phong cách nghệ thuật khác, đó là tính ước lệ cao. Đây dường như là hằng số của lịch sử mà phòng trưng bày này đã đảm trách được, thông qua một loại chất liệu gốm – sứ.
Tuy nhiên, ở đằng sau sự thành công ấy của phòng trưng bày, tôi vẫn cứ tiêng tiếc về một sự tiếp cận kỹ lưỡng hơn. Tất cả sưu tập này không hẳn là tượng tròn, không hẳn là những bức tượng độc lập. Chúng/nó là một bộ phận của kiến trúc, của một hiện vật khác, rất cần được phục dựng qua những bản vẽ, để người xem dễ dàng mường tượng khi ở trạng thái ban đầu, khi chúng được người đương thời sử dụng. Phòng trưng bày nhỏ, chuyên đề, cho phép chúng ta làm được điều ấy kỹ càng hơn.
Tôi cũng chưa thật tán đồng với một số niên đại được các đồng nghiệp đưa ra, đặc biệt là con lân, men màu vàng được xếp vào niên đại thời Lê sơ. Chú thích của hiện vật này được ghi là ngói lợp nóc hình lân, nhưng phần ngói không còn, khiến cho người xem khó hình dung đây là ngói lợp bờ nóc – điều mà tôi đã nói ở trên, khi bên cạnh không có bản vẽ minh họa.

Ngói lợp nóc hình lân- niên đại thời Lê Sơ, thế kỷ 15-16.
Thế nhưng, điều đáng nói ở đây là niên đại Lê sơ của di vật này. Lân hay nghê thời Lê sơ thường được diễn tả đơn giản và thô phác hơn rất nhiều. Ta đã thấy chúng trên nghê đá lăng Lê Thái Tổ (Lam Kinh – Thanh Hóa), trên lân đồng của núm quả ấn “Bình Nhung tướng quân chi ấn” thời vua Lê Thánh Tông, trao cho Trịnh Công Lộ và Lê Thọ Vực, cuối thời Hồng Đức. Con lân ở đây được diễn tả chi tiết từ râu, mũi, mắt đến sống lưng, lông và đuôi với những nét điêu khắc mang đậm đặc trưng thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 18. Chiếc ấn vàng “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trân chi bảo” có núm ấn hình con lân, tuy có dáng đứng vờn cầu, đường bệ hơn con lân này, nhưng về phong cách, mỹ thuật trang trí thì hoàn toàn đồng nhất. Niên đại tuyệt đối của quả ấn này là 6 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh thứ 5, 1709.

Ấn vàng “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trân chi bảo” có núm ấn hình con lân- niên đại năm Vĩnh Thịnh thứ 5, 1709 (Lê Trung Hưng, thế kỷ 18).
Khá giống với con lân này còn một con lân trên núm của quả ấn khác, có tên “Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành” cũng được đúc năm 1709, nhưng vào ngày 28 tháng 12.

Núm hình con lân trên ấn “Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành” niên đại năm Vĩnh Thịnh thứ 5, 1709 (Lê Trung Hưng, thế kỷ 18).
Đưa ra một ví dụ làm minh chứng, hẳn là vô cùng thuyết phục, để các đồng nghiệp tham khảo, mong muốn sự cẩn trọng sẽ được lưu tâm hơn cho những trưng bầy sau. Phòng trưng bầy chuyên đề Tượng gốm cổ Việt Nam là sản phẩm, theo tôi là vàng ròng, trong nhiều thỏi vàng ròng đã được Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đưa tới phục vụ công chúng trong những năm qua, theo đó, những xỉ sạn như thế này cần được luyện lọc kỹ càng hơn.
TS. Phạm Quốc Quân