Chủ Nhật, 16/02/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

10/06/2014 10:41 5768
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Báo chí là một phương tiện thông tin tuyên truyền rất hữu hiệu. Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời (03-02-1930) đã đánh giá cao vai trò của báo chí, coi báo chí như một vũ khí cực kỳ quan trọng để chống lại kẻ thù xâm lược.

Trong những năm lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập, đặc biệt, trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã sử dụng triệt để vai trò của báo chí để tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, cổ động, tổ chức quần chúng đấu tranh. Hàng loạt tờ báo được in và phát hành rộng rãi: Tin Tức, Thời Mới, An Nam Trẻ, Tiền Phong, Dân Chúng, Lao Động…

Báo Dân Chúng tồn tại từ ngày 22-7-1938 đến 30-8-1939, ra được 80 số. Hiện nay tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia đang lưu giữ sưu tập báo Dân Chúng 1938-1939, gồm 79 số (thiếu số 14). Báo Dân Chúng được lưu giữ ở kho giấy, đã vào sổ kiểm kê đăng ký bước đầu và sổ phân loại hiện vật (từ 6520/Gy. 4879 đến 6600/Gy. 4959). Đây thực sự là một nguồn sử liệu quý và có giá trị về nhiều mặt. Những nội dung được phản ánh, trình bày trên báo giúp chúng ta hiểu được đầy đủ không chỉ diện mạo, mà cả chiều sâu của xã hội Việt Nam những năm 1938-1939. Qua báo Dân Chúng ta còn thấy rõ đường lối, sự lãnh đạo cách mạng của Đảng nói chung và chỉ đạo báo chí trong phong trào dân chủ nói riêng.

Đồng chí Hà Huy Tập (1906-1941), được Trung ương Đảng cử vào Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo xuất bản báo “Dân Chúng”.

Trong những năm 1936-1939, báo Dân Chúng thực sự là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và báo chí cách mạng nói riêng. Tờ báo này là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương, được xuất bản công khai hợp pháp, không cần xin phép trước, đã buộc chính quyền thuộc địa phải thừa nhận, trong khi Đảng lại chưa hoạt động được công khai.

Dân Chúng là tờ báo giữ vai trò tiên phong trong phong trào đòi các quyền tự do dân chủ, mà trước hết là quyền tự do báo chí. Quá trình đấu tranh đòi tự do báo chí trên Dân Chúng có thể chia thành hai giai đoạn chính:

Giai đoạn 1: Giai đoạn đấu tranh công khai, nửa hợp pháp và kết quả là đòi được tự do báo chí ở Nam Kỳ (từ số 1 đến số 15).

Giai đoạn 2: Giai đoạn đấu tranh công khai, hợp pháp, tiếp tục đòi tự do báo chí trên cả nước và Đông Dương.

Báo Dân Chúng - Cơ quan của Lao động và Dân chúng Đông Dương, xuất bản tại Sài Gòn năm 1938-1939.

Với mục tiêu đó, ngay từ số đầu tiên, Dân Chúng đã phát động phong trào đấu tranh đòi tự do báo chí với dòng tít chữ đậm: “Trong lúc nầy… hơn lúc nào hết toàn thể nhân dân trong nước đều muốn có tự do báo chí”. Đồng thời báo còn đăng bài bình luận dài nhan đề “Tự do xuất bản báo chí. Luật 29 Juillet 1881”. Bài báo này dẫn chứng: “Đạo luật ngày 29 Juillet 1881 mà người ta hay gọi là Luật thuộc về báo giới” đã được Nghị viện Pháp thông qua, công nhận nhân dân Pháp được hưởng hoàn toàn quyền tự do ngôn luận và tự do xuất bản báo chí. Tiếp đó bài báo trích dẫn “Điều khoản thứ năm của đạo luật ấy đã tuyên bố: Tất cả các nhật báo hay các phẩm trước thuật có kỳ hạn sau khi đã nạp lời khai chiếu theo điều khoản thứ 7 đã định, đều được xuất bản khỏi phải xin phép trước hay là đóng tiền quí”. Và “điều khoản 69… khẩn khoản tuyên bố: Luật này sẽ thi hành ở các thuộc địa. Và nó cũng được chánh thức ban hành ở Nam Kỳ do nghị định đề ngày 27 Septembre 1881”. Trong bài, Dân Chúng lý luận một điều hiển nhiên là “nước Pháp chiếu theo Hòa nghị đã hoàn toàn được hưởng tự do xuất bản từ năm mươi sáu năm nay. Huống chi thổ nhơn An Nam, sanh trưởng, cư trú tại Nam Kỳ là “Phờ-răn-xe” kia mà!”. Tiếp đó, Dân Chúng đưa ra một dẫn chứng về sự vi phạm đạo luật trên thông qua Huấn lệnh ngày 30 Décembre 1898 và khẳng định Huấn lệnh này khác hẳn với tôn chỉ của luật 1881, đã thủ tiêu điều khoản 5 của luật 1881 và cho rằng Huấn lệnh mà có thể thủ tiêu một đạo luật thì còn gì là dân chủ? Còn gì là nhân quyền?

Cuối bài báo, mượn lời của nhà báo Diệp Văn Kỳ, báo Dân Chúng bày tỏ hy vọng Thống đốc Nam Kỳ Pagès, Toàn quyền Brévié sẽ chính thức tuyên bố “từ đây dân Nam Kỳ được hoàn toàn tự do xuất bản báo chí chiểu theo điều khoản của luật năm 1881” và khẳng định rằng hy vọng đó cũng là “hy vọng chung của dân xứ này”.

Trang nhất báo Dân Chúng, số 1 ra ngày 22-7-1938.

Từ số 2, báo có thêm “Nhân dân xứ nầy đối với tờ Dân Chúng”, chuyên trích đăng những lời động viên cổ vũ của quần chúng nhân dân đối với tờ báo nói riêng và phong trào đòi tự do báo chí nói chung. Đứng trước phong trào đòi tự do dân chủ ở Pháp và phong trào đấu tranh đòi tự do báo chí mà Dân Chúng đi tiên phong đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, Tổng thống Pháp A. Lơbrông đã ban hành sắc lệnh cho thực thi tự do báo chí ở Đông Dương vào ngày 30-8-1938. Ngày 7-10-1938, Toàn quyền Đông Dương Brévié lại ra nghị định cho riêng: Nam Kỳ được hưởng quyền tự do báo chí theo sắc lệnh của Tổng thống.

Như vậy chỉ sau hơn một tháng ra đời và phát động phong trào đòi tự do báo chí, Dân Chúng đã giành lại được quyền tự do báo chí mà chính quyền thuộc địa ngăn cấm trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, ta mới chỉ giành được quyền tự do báo chí ở Nam Kỳ, còn phải tiếp tục đấu tranh thực hiện ở Bắc và Trung Kỳ. Tự do báo chí đã đem lại cho Đảng một vũ khí lợi hại, chống lại sự áp bức của chính quyền thực dân, đòi quyền lợi cho nhân dân. Từ đấu tranh đòi tự do báo chí tiến tới đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp.

Ra được 8 số, thấy nhà cầm quyền “làm ngơ” trước sự xuất bản không xin phép của báo, nên đến số 9, Dân Chúng quyết định khuếch trương hơn và kể từ số 10 thì không còn lo lắng với những bài báo “chưa nói được hết lời” như những số trước.

Đến số 15 ra ngày 10-9-1938, tin vui thắng trận đã được Dân Chúng đăng nổi bật lên trang nhất: “Từ đây nhân dân Đông Dương được hưởng hoàn toàn luật tự do báo chí”. Ngay sau tin thắng trận, theo Hồi ký “Chúng tôi làm báo” của Nguyễn Văn Trấn thì “Ở trong viết ra một bài phi lộ thật thay cho lời phi lộ dừa điếc ở số báo đầu”. Với tiêu đề “Mấy lời cùng độc giả” bài phi lộ giới thiệu sự ra đời của Dân Chúng, mục đích và tôn chỉ của tờ báo.

Từ số 16 đến số cuối cùng là thời kỳ hoạt động công khai hợp pháp của báo Dân Chúng vì quyền tự do báo chí đã được ban hành ở Nam Kỳ. Dân Chúng tiếp tục đòi tự do báo chí cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ và tiến tới đòi tự do báo chí cho toàn xứ Đông Dương: “Chúng ta cần phải đấu tranh cho được luật tự do báo chí thi hành khắp xứ Đông Dương” (Dân Chúng, số 30, ngày 16-11-1938). Đặc biệt, Dân Chúng đã nhận thức được một vấn đề mang tầm vóc thời đại: “Chúng tôi vẫn luôn luôn tuyên bố rằng ở chế độ tư bản nầy, một tự do dân chủ nào mà nhân dân chinh phục được cũng chỉ là tương đối và còn rất eo hẹp. Chỉ có đến chủ nghĩa xã hội mới hoàn toàn được tự do mà thôi”, mà cụ thể ở đây là quyền tự do báo chí (Dân Chúng, số 30).

Không cấm được báo Dân Chúng xuất bản thì thực dân Pháp cấm báo không được bày bán, tàng trữ, lưu hành ở Bắc và Trung Kỳ, do đó đã làm ảnh hưởng khá lớn đến số lượng báo phát hành, đồng thời lấy cớ báo đăng những bài có tư tưởng phản động, chính quyền thực dân liên tục tiến hành khám xét, bắt bớ những người quản lý báo nhằm gây khó khăn cho báo. Vượt lên trên những khó khăn đó, báo Dân Chúng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Với bài “Phản đối việc cấm lưu hành báo ở Trung Kỳ”, Dân Chúng vạch trần chính sách phản động về báo chí của chính phủ Trung Kỳ và chỉ trích một chính sách bóp nghẹt dư luận như thế không hợp thời đối với sự tiến bộ và đã lớn tiếng kêu gọi quần chúng can thiệp, phản đối Nghị định trên của chính phủ Trung Kỳ và yêu cầu thủ tiêu Nghị định ấy.

Từ đấu tranh đòi tự do báo chí, Dân Chúng tiến lên đòi tự do ngôn luận. Có tự do báo chí mà không có tự do ngôn luận thì tính chất sắc bén và mạnh mẽ của báo chí không còn nữa. Nhà báo cũng không thể phản ánh một cách trung thực cuộc sống bị áp bức, bóc lột của nhân dân và bênh vực quyền lợi của người dân lao động được. Vấn đề này được báo Dân Chúng đưa ra trong số 12 (ngày 31-8-1938) trong mục “Quyền hạn của nhà làm báo xứ nầy”. Bài này viết “Quyền hạn của nhà làm báo xứ nầy hết sức hẹp hòi? Hay là nhà cầm quyền ở xứ nầy có quyền hạn vô tận?”. Đồng thời Dân Chúng còn công khai chống bọn Tờrốtkít đang rêu rao “Tự do báo chí là tự do buôn bán nhật trình” nhằm cố ý che đậy tính chất của tự do báo chí. Trong báo Dân Chúng số 76 (ngày 2-8-1939), tác giả Nguyễn Văn Trấn viết: “Ai cũng đã biết rằng ở xứ nầy (Nam Kỳ), tuy đã có tự do xuất bản nhưng quyền hạn và hình thức tự do ngôn luận của các nhà viết báo luôn luôn vẫn bị hăm dọa và xâm phạm với những hình luật về báo chí hết sức gắt gao”. Dân Chúng còn cổ vũ phong trào Hội nghị báo giới toàn quốc, nhằm tranh thủ đoàn kết các nhà báo tiến bộ cùng đấu tranh đòi tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Tháng 8-1939, đứng trước ngưỡng cửa của cuộc chiến tranh thế giới, Chính phủ Pháp ra sắc lệnh buộc các tờ báo quốc văn cũng như Pháp văn đều phải chịu kiểm duyệt trước khi in. Đến ngày 01-9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, mọi quyền tự do dân chủ, kể cả quyền tự do báo chí hoàn toàn bị bãi bỏ. Báo Dân Chúng ra số cuối cùng số 80 ngày 30-8-1939, rồi tự ngừng xuất bản. Dưới chỉ thị của Trung ương Đảng, toàn bộ Ban Biên tập và cán bộ làm báo chuyển vào hoạt động bí mật, tự đóng cửa tòa soạn. Tuy vậy, ngày 13-10-1939, P. Denssan được ủy quyền của Toàn quyền Đông Dương ký lệnh cấm báo Dân Chúng, cùng với một số tờ báo cách mạng và cấp tiến khác.

Đấu tranh đòi tự do báo chí là một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong các khẩu hiệu đấu tranh cho tự do dân chủ. Vì có tự do báo chí mới có thể công khai tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, mới phản ánh được nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, tổ chức và rèn luyện quần chúng trong đấu tranh một cách rộng rãi, kịp thời. Báo Dân Chúng đã thể hiện vai trò của mình là một vũ khí đấu tranh cách mạng sắc bén và mạnh mẽ, ghi lại chiến công có ý nghĩa lịch sử: mở đường cho tự do báo chí, giáng một đòn mạnh vào chính sách báo chí phản động của chính quyền thực dân ở Đông Dương. Trong hơn một năm tồn tại, Dân Chúng đã chiến đấu cho thắng lợi của tự do báo chí, từ đó đấu tranh cho tự do ngôn luận, hoàn thành sứ mệnh mà Đảng giao phó, đóng góp những trang rực rỡ trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.

Lê Khiêm (tổng hợp)

Nguồn:

- Trần Thị Thủy, “Báo “Dân Chúng” với cuộc đấu tranh đòi tự do báo chí trong phong trào dân chủ 1936-1939”, Thông báo khoa học 2010, số 13, H.: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, tr. 76-79.

- Nguyễn Thị Tường Khanh, “Cuộc đấu tranh vì tự do báo chí trên báo “Dân Chúng” (1938-1939)”, Về lịch sử văn hóa và bảo tàng, H.: Chính trị quốc gia, 2004, tr.478-483.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước di nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người “đi xa” (Phần 2 và hết)

  • 12/07/2019 08:46
  • 6908

Nền độc lập dân tộc tồn tại không được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng nổ súng đánh chiếm Nam Bộ sau đó mở rộng ra cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Bài viết khác

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía (1)

Vũ khí Việt Nam khiến giặc phương Bắc khiếp vía (1)

  • 27/05/2014 11:19
  • 3933

Lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì “thần cơ sang pháo” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại, khiến quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.