Sau nhiều lần điền dã và khảo sát, nhóm nghiên cứu khảo cổ học của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi đã phát hiện vết tích ngôi làng được cho là nơi sinh sống của hơn 40 hộ dân với đầy đủ các thiết chế của một ngôi làng Việt khoảng 600 năm về trước.
Sau nhiều lần điền dã và khảo sát, nhóm nghiên cứu khảo cổ học của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi đã phát hiện vết tích ngôi làng được cho là nơi sinh sống của hơn 40 hộ dân với đầy đủ các thiết chế của một ngôi làng Việt khoảng 600 năm về trước.
Dấu tích còn để lại là cổng làng, cây đa, giếng nước… và những phiến đá độc đáo; những dòng suối dẫn nước về làng… Theo Tiến sĩ khảo cổ học Đoàn Ngọc Khôi (Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi) đây có thể được xem là một “Phước Tích” thứ hai của VN (làng cổ Phước Tích của tỉnh Thừa Thiên-Huế).
Dấu tích ngôi làng cổ hiện nằm ở chân Núi Nứa thuộc thôn Thiên Xuân, xã Hành Tín Đông (huyện Nghĩa Hành).
Làng có tên Thiên Xuân, nằm sát bên tỉnh lộ 628 từ thành phố Quảng Ngãi đi huyện Ba Tơ ngang qua đèo Đá Chát, nối với quốc lộ 24 thông lên các tỉnh Tây Nguyên; chu vi làng gần 2km2 được vây bọc bởi một hệ thống thành (không có hào) bằng những phiến đá xếp rất vững chãi.
Mặt thành rộng 1m, cao từ 2,5 đến 3m. không phát hiện ra bất cứ một loại vôi vữa nào gắn kết giữa các tảng đá, mà chỉ là đá chồng đá, có chăng để tạo thành một khối và duy trì “mối liên hệ khăng khít” ấy là những mấu của các tảng đá do tự nhiên hay bàn tay con người tác động thì cho đến nay các nhà khảo cổ vẫn chưa có kết luận chính thức.
Các dấu tích còn lại cho thấy, bên ngoài lũy đá (trước đây) được trồng những bụi tre gai ken dày, theo quan niệm xưa nhằm chống lại thú dữ.
Phía nam của làng còn sót lại dấu vết một đền thờ, cũng theo Tiến sĩ Khôi thì đó là nơi thờ thần núi - một tập quán của người Việt cổ ở khu vực miền Trung, nhất là những làng ở gần núi cao như làng Thiên Xuân.
Ngôi miếu chỉ còn sót lại phần nền và một tảng đá, rộng khoảng 1m2, được mài nhẵn phần mặt, dùng làm nơi đặt lễ vật mỗi khi cúng tế.
Phía tây của làng (trước đây) là dòng sông Vệ uốn quanh tạo nên những vực xoáy, nước ở vực sâu khoảng 4-5m, tương truyền làng có tục danh là Xóm Xoáy (Khoái). Bên trong lũy thành vẫn còn dấu tích của tất cả các nền nhà, giếng nước, bình vôi, gốc khế, dây trầu không quấn quanh những thân cau thẳng tắp…
Các mảnh vườn trong làng được chia thành những ô nhỏ vuông vắn, mỗi ô rộng chừng 300m2, ngăn cách nhau cũng bằng những dãy tường đá được xếp thấp hơn nhiều so với lũy thành.
Trong từng mảnh vườn là các gốc khế, mít, sung, lá lốt… nay vẫn tồn tại với thời gian. Trước khi đến cổng làng, phải đi qua dãy đá tam cấp được xếp chồng lên nhau, bên gốc đa đầu làng còn dấu tích của cổng làng được làm bằng gỗ lim, phía Đông của làng chính là ngọn núi Nứa nằm trong dãy núi Vàng hùng vĩ.
Nước được dẫn về làng bằng những dòng suối nhỏ, lòng suối dài hơn 1km, được xếp bằng đá chồng đều lên nhau ngay ngắn và đẹp mắt - thật là một kỳ công hiếm thấy ở các làng cổ người Việt, một hệ thống dẫn thủy độc đáo, vừa chống xói lở, vừa “lọc” được tạp chất của nước qua lớp đá này.
Thiên Xuân bao nhiêu tuổi?
Theo Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi, các nhà khảo cổ đang tiến hành đào thám sát để tìm hiện vật như các loại gốm thì mới biết chắc chắn được tuổi thọ của làng.
Tuy nhiên, theo nhận định ban đầu, ngôi làng đã tồn tại chừng 400-600 năm (khoảng thế kỷ 15), có thể là sự kế thừa từ những chủ nhân người Chăm.
Theo sử chép thì vào thời điểm này, những cư dân Việt đến đây khẩn hoang lập làng dưới triều đại Hồ Quý Ly.
Sau sự kiện vua Chămpa tiến quân chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy Động nhân Đế chế Minh Trung Hoa xâm chiếm Đại Việt, những cư dân gốc xứ Thanh - Nghệ - Tĩnh bị kẹt lại ở đây. Và, họ đã lập làng cố thủ ở vùng đất bán sơn địa này.
Ông Hồ Trọng Tấn, một cư dân của làng, 84 tuổi, cho biết, đến đời ông là cháu đời thứ 6 của họ Hồ. Làng Thiên Xuân này có bốn tộc họ Nguyễn, Hồ, Lê, Đoàn là những họ tiền hiền đến đây khẩn hoang lập làng. Sau năm 1945, vì nhiều lẽ khác nhau, trong đó theo lời kể lại của một số người cao tuổi ở làng, một trận dịch bệnh đã làm chết nhiều người và cư dân làng phải chuyển xuống vị trí làng hiện giờ cách đó không xa, sát với dòng sông Vệ (đã đổi dòng) hiện nay.
Còn ông Nguyễn Thành, 75 tuổi, dân Thiên Xuân chính gốc, nói: “Đời ông cố tôi kể rằng lũy làng được xây lâu lắm rồi nhưng mãi đến sau Cách mạng tháng Tám, nghe vận động của cách mạng, dân làng mới xuống định cư như ngày nay”.
Sau khi phát hiện, Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức đào thám sát tại bến nước của làng. Tại hiện trường, ngoài các loại bình vôi còn có các lớp gốm Việt, dưới các lớp gốm là bộ xương thú còn khá nguyên vẹn. Theo ông Đoàn Ngọc Khôi, việc sử dụng các loại gốm ở Thiên Xuân là sự kế tục giữa văn hóa Chăm và văn hóa Việt ngay từ buổi ban đầu khẩn hoang lập làng.
Để bảo tồn và gìn giữ, Bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi và huyện Nghĩa Hành đang phối hợp đo đạc và lập hồ sơ đề nghị công nhận làng cổ Thiên Xuân là di tích lịch sử văn hóa. Làng cổ Thiên Xuân được phát hiện đã thu hút sự chú ý của Trường Viễn đông bác cổ tại VN, một đoàn cán bộ nghiên cứu của trường - dẫn đầu là ông Andrew Hardy - Trưởng đại diện đã đến tận nơi tìm hiểu ngôi làng này. Ông đánh giá khá cao giá trị lịch sử của ngôi làng và cho rằng nó sẽ giúp ích nhiều cho giới khảo cổ học VN trong việc nghiên cứu các ngôi làng cổ ở khu vực miền Trung.
Theo HÀ MINH - Sài Gòn giải