Thu này, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Nguyễn Tài đã ở cõi Tiên Cảnh. Những dòng chữ tôi ghi tốc ký từ năm 1986, khi tôi học hỏi Ông về lớp trí thức Hà Nội theo cách mạng, đã khiến tôi nhớ đến Ông, người cán bộ kiên trung, vững vàng trước mọi gian nan, thử thách
Là một trong những cán bộ chủ chốt của Thành ủy Hà Nội và của ngành công an thành phố Hà Nội, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Ông đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng Thủ đô
Những kỷ niệm buồn vui một thuở mà ông từng trải vẫn là ngọn lủa thắp sáng niềm tin cho hậu thế, hãy biết tin vào lẽ phải.
Bước đầu tiên trên đường cách mạng - làm báo
Ông sinh năm 1926 và là con thứ hai của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Năm 1944, ở tuổi 18, tràn đầy hoài bão và lý tưởng cách mạng, ông tham gia Đội Thanh niên Cứu quốc thành Hoàng Diệu, rồi được kết nạp Đảng ở Hoàng Mai, sau ngày Nhật đảo chính Pháp (tháng 3 năm 1945). Được tổ chức chọn lựa lên chiến khu Việt Bắc học lớp quân sự ngắn ngày tại trường Quân chính kháng Nhật, nhưng mãn khoá học, ông bị phân công trái ngạch quân sự - về nhà in báo Nước Nam mới (cơ quan truyên truyền của Việt Minh khu giải phóng) đặt tại Khu giải phóng. Gọi là làm báo, nhưng trong điều kiện khó khăn lúc đó, chỉ là in li-tô rất thủ công mà bây giờ chúng ta không thể hình dung được. Ông kể lại: “Ru lô chỉ là một nửa ống tre ngắn bằng nửa bề ngang trang báo, bọc bằng săm xe đạp; lõi ru-lô là chiếc đũa để hai tay cầm hai đầu lăn. Phải lăn 100 lần thì mới in xong một trang báo. Khổ nhất là in dưới ánh sáng của loại nến làm bằng lá chuối cuộn lại tẩm nhựa trám, khói cay xè mắt, lại thêm cái tội nhựa hay nổ, bắn vào mặt báo, mất nhiều chữ là phải mài lại mặt đá, viết lại (theo lối viết chữ ngược). Bốn chúng tôi cứ hì hụi làm như thế, lần lượt in đủ bốn trang báo khổ nhỏ bằng ¼ tờ báo bây giờ, cho đến nửa đêm mới xong số báo mới. Sáng hôm sau, nhìn báo ra lò, phát hành rộng rãi trong khu giải phóng, anh em chúng tôi như nở mày nở mặt, vui lắm. Nhưng cũng có phen bị Cụ “Ké” viết bài phê thẳng cánh, đại ý: các đồng chí làm báo thì đừng có cắt đầu cắt đuôi các bài, làm cho người đọc chẳng hiểu ý tứ của bài báo”.
Báo Nước Nam mới, số 6 ra ngày 21-8-1945. Báo do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo biên tập. (Bản chụp báo gốc lưu tại BTLSQG)
Sau này, nhìn thấy báo Nước Nam mới trong Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia), Ông mới biết, hoá ra mình đã làm biên tập báo từ cái thuở ban đầu đầy bỡ ngỡ, sôi nổi ấy.
Trong lòng dân Hà Nội
Tháng 9 năm 1945, Ông từ chiến khu về Hà Nội, nhận công tác tại Sở Liêm phóng, sau là Sở Công an Bắc bộ. Tháng 10 năm 1946, Ông là người cán bộ công an đầu tiên đã xin giấy phép cho ra báo “Công an Mới”. Số đầu tiên của báo ra ngày 1/11/1946 là tiền thân của báo Công an Nhân dân hiện nay.
Sau khi sát cánh cùng vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu kháng chiến chống Pháp xâm lược, Sở Công an Bắc bộ phải từ nội thành rút dần ra, đóng quân ở các xã của Thanh Oai để củng cố, kiện toàn lại tổ chức, phát triển lực lượng. Giữa năm 1949, Ông nhận nhiệm vụ mới: là Thành ủy viên Thành ủy Hà Nội, phụ trách công tác trí thức vận. Đồng thời, ở cương vị Phó Giám đốc Ty Công an, ông phải trực tiếp vào nội thành nắm tình hình về việc thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng: “Tích cực chuẩn bị chiến trường, tiến tới Tổng phản công”. Lúc này, phong trào kháng chiến Hà Nội đang thoái trào nên vào được nội thành là cả một hành trình phức tạp, gian khổ. Ông phải đi qua các đường dây giao liên từ Hữu Văn - vùng tự do huyện Chương Mỹ, qua Quảng Bị, Kim Bài rồi về Văn Điển, Nam Dư Thượng và cuối cùng tới Tương Mai. Ở đây, Ông mới có thể yên tâm đi giày Tây, lên xe kéo, vào cơ sở trong nội thành.
Trong câu chuyện của mình, Ông nhắc nhiều đến người đồng chí thân yêu - ông Ngọc đen - tức Vũ Tá Ngọc, một trong những thổ công giỏi của công an nội thành. Nhờ có các đồng chí đang hoạt động bí mật, ông được bố trí đến nhà cơ sở, đóng vai gia sư cho gia đình ông bà Huấn Linh, một trí thức yêu nước ở phố Wíélé (nay là phố Tô Hiến Thành) để che mắt địch. Những tấm lòng yêu nước như ông dược sĩ Chế (anh vợ đồng chí Trần Duy Hưng), bác sĩ Phạm Khắc Quảng, luật sư Vũ Văn Hiền, bác sĩ Trần Văn Lai…là tấm áo giáp che chở cho cán bộ kháng chiến hoạt động. Những trí thức yêu nước mà địch gọi là “trùm chăn”, kiên quyết không cộng tác với chúng nhưng chúng không làm gi được nên đã gọi các ông là “ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng sản”.
Đàm phán ở Hội nghị Phù Lỗ
Sau Hiệp định Giơnevơ, ông Trần Vỹ và ông Nguyễn Tài - hai thành uỷ viên được cử vào Đoàn đại biểu của ta tại Hội nghị Phù Lỗ, bàn về các vấn đề quân sự và hành chính để chuyển giao khu chu vi Hà Nội. Bằng trí thông minh, sắc sảo, lại có tài liệu chứng cứ cụ thể về những nhà máy, công sở đã bị địch phá hoại máy móc, cất giấu, phá hủy nhiều tài liệu quan trọng, ông Nguyễn Tài đã đưa ra hội nghị lý lẽ xác đáng, buộc phía Pháp phải bàn giao tài sản, đảm bảo guồng máy hoạt động bình thường sau khi ta tiếp quản. Đó là những thắng lợi lớn của ta trong cuộc đấu tranh ngoại giao mà “trên thế giới chưa từng có tiền lệ về việc chuyển giao, tiếp quản thành phố từ lực lượng đối địch bằng phương pháp hoà bình”, ông đã từng nói như vậy khi nhắc lại sự kiện này.
Ngày đại diện ta và Pháp ký kết văn bản (30/9/1954) cũng là ngày cán bộ các ngành tập trung ở Phù Lỗ nghe Ông phổ biến nội dung và cách thức làm biên bản chuyển giao ở từng công sở, nhà máy, bệnh viện…kèm theo bản danh mục kiểm kê tài sản hiện có. Hai bên cùng ký biên bản để làm cơ sở cho phái đoàn Ủy ban Liên hiệp đình chiến tiếp tục đấu tranh đòi bồi hoàn tài sản bị mất. Từ Phù Lỗ, Đội Hành chính do ông Trần Danh Tuyên, Phó Bí thư Thành ủy làm Trưởng đoàn, ông Nguyễn Tài làm Phó đoàn gồm 422 cán bộ đã vào thành phố trong các ngày 2, 3, 4/10/1954; lấy địa điểm Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108) làm trụ sở của Đội để thực hiện nhiệm vụ kiểm kê ở từng cơ quan, công sở. Ngày 5/10/1954, Đội Trật tự gồm 158 công an có vũ trang cũng vào Hà Nội tiếp quản. Đến ngày 9/10/1954, tất cả hệ thống cơ quan hành chính đã được bàn giao, tiếp nhận hoàn chỉnh. Ngày 10/10/1954, bộ máy hành chính thành phố hoạt động ổn định, an toàn.
Thành phố tưng bừng hân hoan trong niềm vui bất tuyệt, trong nụ cười và nước mắt xúc động của mỗi gia đình đoàn tụ sau chín năm xa cách. Còn Ông lại phải tiếp tục xa gia đình để nhận nhiệm vụ mới - giúp lãnh đạo thành phố Hải Dương chỉ đạo tiếp quản. Sau đó, Ông tham gia Ủy ban Liên hiệp Đình chiến Trung ương, tiếp tục đấu tranh trên bàn hội nghị để đi đến ký kết Hiệp định chuyển giao tiếp quản khu vực Hải Phòng trong thời hạn 300 ngày, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ.
Kỷ niệm đất nước không còn bóng quân xâm lược ở miền Bắc, ông bà đặt tên con gái đầu lòng sinh năm 1954 là Hoà Bình, lâng lâng hạnh phúc trong niềm vui lớn của muôn nhà.
Lửa thiêng sáng mãi
Năm 1964, Ông tạm biệt gia đình yêu thương lên chuyến tàu Không số vào nhận nhiệm vụ với tên mới - Tư Trọng. Ông đảm trách nhiệm vụ Trưởng Ban an ninh T4 thành phố Sài Gòn - Gia Định, rồi bị địch bắt ở Bến Tre ngày 23/12/1970 trên đường đi công tác. Ông bị giam cầm ở sư đoàn 25 ngụy rồi bị chuyển đến Phủ đặc ủy tình báo trung ương ở Sài Gòn. Chúng nhốt ông trong phòng biệt giam sơn trắng toát, đèn sáng lóa luôn ở nhiệt độ rất cao. Suốt 5 năm bị khảo tra các ngón đòn tinh vi, ác độc, Ông vẫn giữ vững khí tiết người cộng sản. Trưa ngày 30/4/1975, khi cán bộ ta vào phòng biệt giam để đưa ông ra, chỉ thấy một ông già râu bạc phơ, ốm yếu. Trong niềm vui gặp anh em, đồng chí, đêm 30-4, ông làm bài thơ tràn đầy hân hoan:
Trở về
Thoát xiềng long lanh đôi mắt
Cao đầu hổ trở về rừng
Dạt dào niềm tin sức sống
Vui đời sáng mãi ban mai
Ông ở lại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976 mới được về Hà Nội ăn Tết đầm ấm sum họp với gia đình. Chín năm kháng chiến chống Pháp lăn lộn ở miền Bắc, mười một năm nếm trải chiến trường miền Nam và các trận đòn thù của Mỹ - Ngụy càng tôi luyện ý chí gang thép của người Cộng sản Nguyễn Tài. Ngày 10/6/2002, tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Công an đã long trọng tổ chức lễ trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà Đảng, Nhà nước phong tặng cho Ông. Ngày 8/12/2008, ông được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2012, đúng vào ngày 19/5, kỷ niệm sinh nhật Bác, ông được Đảng bộ phường Trung Tự trao tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng. Và hôm nay, giở lại những trang “tốc ký” mà tôi đã từng ghi trong những buổi làm việc với Ông về cuộc kháng chiến của quân dân Hà Nội, tôi càng thấm thía sâu sắc, ngọn lửa của niềm tin thiêng liêng trong tim người chiến sĩ cách mạng đã cho Ông bản lĩnh vững vàng và soi sáng cho Ông trên đường đời gian khó.
Ông Nguyễn Tài phát biểu tại Lễ đón nhận danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10/6/2002.
62 năm đã qua, kỷ niệm ngày tiếp quản Thủ đô sắp đến, chúng tôi luôn nhớ về Ông cùng những người bạn chiến đấu từ thuở rừng xanh Việt Bắc đến khi về trung du, đấu trí với địch tại Hội nghị Phù Lỗ thắng lợi để tiếp quản thành phố Hà Nội trọn vẹn.
Ths. Phạm Kim Thanh