Thứ Ba, 13/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

06/06/2016 04:23 1494
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát triển nhanh với mức độ và quy mô ngày càng ác liệt. Tình hình đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải có những chủ trương, quyết sách kịp thời, nhạy bén và sát thực tiễn hơn.

Đầu năm 1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về để trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, Người thay mặt cho Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa I) họp từ ngày 10 đến 19-5-1941, tại Khuổi Nậm, Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã đề ra những chủ trương, quyết sách mang tầm cỡ lịch sử.

Lán Khuổi Nậm ở Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, nơi diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (5/1941) quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.

Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Khẩu hiệu của Việt Minh là: phản Pháp, kháng Nhật, liên Hoa, độc lập.

Không chỉ đề cập đến những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách Mặt trận, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 còn đề ra một cách toàn diện những vấn đề về nội dung, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động của Mặt trận Việt Minh và các tổ chức, đoàn thể quần chúng. Hội nghị nêu rõ: Khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Mặt trận Việt Minh, và sẽ là cờ của Tổ quốc khi giành được chính quyền.

Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ.

Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh khẳng định: “Việt Minh chủ trương liên hiệp các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn. Việt Minh chủ trương học tập hết thảy mọi tinh thần độc lập chân chính của giống nòi kết thành một khối vô địch đặng đập tan xiềng xích của Nhật Pháp, quét sạch mưu mô xảo trá của bọn Việt gian phản quốc, chúng đã gạch tên trong quốc tịch của người Việt Nam”.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kêu gọi các tầng lớp nhân dân theo thành phần, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và hoàn cảnh xã hội hãy tham gia vào các tổ chức đoàn thể cứu quốc do Việt Minh lãnh đạo: “Nông dân vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”. Trẻ em vào “Nhi đồng Cứu quốc hội”. Công nhân vào “Công nhân Cứu quốc hội”. Binh lính vào “Binh lính Cứu quốc hội”. Các bậc phú hào văn sĩ vào “Việt Nam Cứu quốc hội” để “Đồng tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Khẩu hiệu của Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp.

Về tổ chức, Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ cơ sở đến Trung ương: Ở cấp xã có Ban chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; ở cấp tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ có Ban chấp ủy Việt Minh của mỗi cấp tương ứng; ở cấp toàn quốc có Tổng bộ Việt Minh.

Về thành viên của Mặt trận Việt Minh, ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (Hội Công nhân cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Văn hoá cứu quốc…) còn có những hội, đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, Nhóm Học Quốc ngữ, Nhóm Đọc sách, xem báo...

Ngày 30/6/1944, Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời và làm thành viên của Việt Minh, làm cho Mặt trận Việt Minh thêm rộng rãi, thu hút được nhiều nhà văn hoá, văn nghệ, trí thức và tư sản dân tộc yêu nước. Với phương thức tổ chức đa dạng, phong phú này, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp hầu hết các giai cấp, tầng lớp nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để đấu tranh cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc.

Chương trình của Mặt trận Việt Minh, tháng 5-1941.

Chương trình của Việt Minh nêu rõ: Muốn cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi; Việt Minh phải liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị, giai cấp, tất cả đoàn kết lại để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở, đồng thời phải hết sức giúp đỡ Ai Lao và Cao Miên để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh.

Chương trình gồm 44 điểm, là một hệ thống các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa; những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, công chức, học sinh, phụ nữ, thiếu nhi, người già và kẻ tàn tật, tư sản, địa chủ, nhà buôn.

Trong suốt quá trình vận động cách mạng từ Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công, những chủ trương nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng lực lượng cách mạng đều được quán triệt trong các văn kiện của Mặt trận Việt Minh.

Và trong thực tiễn hoạt động cách mạng kể từ khi Mặt trận Việt Minh ra đời, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp - Nhật của nhân dân ta mang tên là Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta”.

Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách mạng, công cuộc chuẩn bị mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền được xúc tiến mạnh mẽ, gấp rút.

Với chủ trương đúng đắn, mục tiêu cụ thể trong Tuyên ngôn và Chương trình 44 điểm của mình, Mặt trận Việt Minh đã đáp ứng khát vọng cháy bỏng của các tầng lớp nhân dân là giải phóng dân tộc ra khỏi tròng áp bức, nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật; làm cho mỗi người dân được quyền sống trong một đất nước độc lập, tự do, dân chủ, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Trong khoảng thời gian từ cuối năm 1941 đến đầu năm 1942, từ những tổ chức thí điểm Việt Minh đầu tiên ở Hà Quảng (Cao Bằng), Mặt trận Việt Minh đã phát triển một cách mau lẹ ra toàn quốc.

Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, phong trào đấu tranh vũ trang của Việt Minh cũng nổ ra khắp nơi. Từ tháng 7 năm 1942 đến đầu năm 1943, ở căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu Quốc quân đã tiến hành chiến tranh du kích với nhiều thắng lợi lớn.

Ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa.

Ngày 22-12-1944, thay mặt Tổng bộ Việt Minh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay) là lực lượng vũ trang chủ lực của Mặt trận Việt Minh, đánh dấu mốc phát triển và trưởng thành mới trong phong trào đấu tranh vũ trang của Việt Minh.

Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân vào ngày 22-12-1944.

Ngày 9-3-1945, quân đội Nhật nổ súng đồng loạt, lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, sau thời gian ngắn, quân Pháp ở Đông Dương tan rã. Sự cấu kết Pháp - Nhật để thống trị Đông Dương chấm dứt. Ngay trong đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới.

Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết và công bố Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị của Đảng, Mặt trận Việt Minh ráo riết đẩy mạnh cao trào “Kháng Nhật, cứu nước”.

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh lập ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, tổ chức các lớp huấn luyện, tập dượt cho nhân dân nắm chính quyền. Ngày 4/6/1945, thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc gồm 2 căn cứ lớn nằm trên địa bàn của 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái...

Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại đình Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) trong 2 ngày 16 và 17-8-1945. Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương kiến nghị, thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh (cờ của Mặt trận Việt Minh) làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca (của nhạc sĩ Văn Cao) làm Quốc ca và cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; một Ủy ban Thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.

Mười chính sách lớn của Việt Nam Độc lập Đồng minh (Mặt trận Việt Minh), năm 1941.

Chỉ trong vòng hai tuần lễ, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên phạm vi cả nước. Mặt trận Việt Minh có công lớn là đã tập hợp các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và các tổ chức cứu quốc đoàn kết, động viên toàn dân vùng lên giành chính quyền, đưa cách mạng tháng Tám đến thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu trở về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban Giải phóng dân tộc đổi thành Chính phủ lâm thời với thành phần mở rộng nhằm thực hiện sự đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và các nhân sĩ tiến bộ.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã diễn ra cuộc mít tinh chào mừng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đại diện Tổng bộ Việt Minh, ông Nguyễn Lương Bằng đọc diễn văn khái quát vai trò, sứ mệnh lịch sử vinh quang của Mặt trận Việt Minh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và đọc Lời hiệu triệu đồng bào cả nước, trong đó nêu rõ: Tổng bộ Việt Minh kêu gọi mọi quốc dân đồng bào quyết tâm giữ vững độc lập đã giành được, không trông chờ vào người khác, một lòng ủng hộ Chính phủ, sẵn sàng đập tan kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp. Khẩu hiệu của toàn dân ta lúc này: “Đoàn kết, phấn đấu, củng cố nền độc lập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2-9-1945.

Đánh giá vai trò của Mặt trận Việt Minh, Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt họp tháng 3-1951 nêu rõ: “Việt Minh có công lớn trong việc xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân, chống quân cướp nước. Công đức ấy tất cả mọi người Việt Nam phải ghi nhớ. Lịch sử của Việt Minh 10 năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc cũng là những trang sử vẻ vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta”.

Mặt trận Việt Minh ra đời giành được chính quyền trước hết là kết quả của sự định hình đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương về chỉ đạo chiến lược giữa nhiệm vụ phản đế và phản phong; giữa dân tộc và giai cấp. Đây cũng là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước.

Việt Minh còn là sản phẩm của sự đúc kết, kế thừa các mô hình tổ chức Mặt trận trước đó, nhưng có sự phát triển về chất trong việc vận dụng chiến lược và sách lược liên minh nhằm tập hợp tối đa các lực lượng cả tổ chức lẫn cá nhân có thể tập hợp được. Sức thu hút cao của Mặt trận Việt Minh chính là ở chỗ đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người Việt Nam ai cũng thấy được vị trí, trách nhiệm, quyền lợi của mình trong tổ chức đó.

Việt Minh có được những thành tích vẻ vang trước hết là do đường lối cách mạng nói chung và chủ trương, chính sách Mặt trận nói riêng của Đảng đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân, trong đó nổi bật là tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc - linh hồn của những chủ trương, đường lối đã đề ra và được vận dụng.

Phương Anh (tổng hợp)

Nguồn:

- Nguyễn Tri Thư, “Mặt trận Việt Minh - vấn đề dân tộc và giai cấp”, Cách mạng tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc, H. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 193-205.

- Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, “Mặt trận Việt Minh ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập”, Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập (Từ thời nguyên thủy đến năm 2000), H. Giáo dục Việt Nam, 2009, tr. 813-821.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ: