Thứ Ba, 13/05/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

06/06/2016 03:55 1174
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Lòng chảo Mường Thanh nổi tiếng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954, trận chiến lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh bại hoàn toàn quân đội của một cường quốc châu Âu bằng sức mạnh quân sự, buộc Pháp phải trao trả độc lập cho 3 nước Đông Dương.

Không chỉ vậy, nơi đây còn được biết đến với 2 tòa thành có lịch sử lâu đời: thành Sam Mứn và thành Bản Phủ. Đây là những tòa thành cổ gắn liền với quá trình đấu tranh, bảo vệ cộng đồng của các dân tộc vùng Tây Bắc.

Vị trí di tích thành Sam Mứn và thành Bản Phủ ở lòng chảo Mường Thanh.

1. Thành Sam Mứn

Thành Sam Mứn (hay còn gọi là thành Tam Vạn) thuộc xã Sam Mứn, huyện Điện Biên, nằm ở phía cực nam của cánh đồng Mường Thanh. Thành nằm trên trục đường 279 nối Thành phố Điện Biên Phủ với cửa khẩu Tây Trang và ngã ba đường đi huyện Điện Biên Đông. Hai mặt phía bắc và phía đông thành được bao bọc bởi những ruộng lúa bạt ngàn của cánh đồng Mường Thanh, phía tây là sông Nậm Rốm, phía nam là sông Nậm Núa. Phía bên kia của hai con sông này đều là những ngọn núi cao hiểm trở. Trong thành còn có một lạch nước chảy từ hào nước phía đông thành về sông Nậm Rốm ở phía tây. Thành được đắp ở 2 mặt phía bắc và phía đông. Dựa vào những vết tích đắp thành còn lại có thể thấy tường thành phía bắc dài gần 1km, tường thành phía đông dài khoảng 1,4km, bên ngoài vẫn còn dấu tích của hào nước là những mương, ao, ruộng thấp... Phía tây và nam, nơi có địa thế hiểm trở với các dòng sông Nậm Rốm, Nậm Núa là những hào nước tự nhiên và các dãy núi cao bao bọc thành. Thành lại nằm trên trục đường chiến lược từ Mường Thanh đi Tây Trang, ở ngã ba của hai con sông Nậm Rốm và Nậm Núa, nên vừa thuận lợi trong việc tiến công cũng như rút chạy khi có biến cố.

Dấu tích một đoạn thành phía đông của thành Sam Mứn.

Lịch sử vùng đất Mường Thanh chủ yếu được ghi chép trong các bộ sử của người Thái. Nổi tiếng nhất trong đó là bộ Quam Tô Mương, song lại mang màu sắc huyền thoại và họ ít ghi chép về thời gian. Theo đó, từ thế kỷ 9 - 10, người Lự đã làm chủ Mường Thanh và phát triển vùng ảnh hưởng của mình tới các khu vực xung quanh. Thời điểm này người Lự bắt đầu xây dựng thành Sam Mứn ở phía nam của cánh đồng Mường Thanh làm căn cứ. Đến thế kỷ 15, về cơ bản, các chúa Lự vẫn giữ được sự ảnh hưởng của mình ở vùng Tây Bắc này. Tuy nhiên, trả qua 19 đời chúa Lự, đến đầu thế kỷ 18, thành Sam Mứn bị giặc Phẻ chiếm đóng, người Lự phải di dời khỏi Mường Thanh. Năm 1754, nghĩa quân của Hoàng Công Chất liên kết với các thủ lĩnh người Thái đánh bại giặc Phẻ và lấy thành Sam Mứn làm căn cứ hoạt động của mình

Như vậy, thành Sam Mứn do các chúa Lự xây dựng vào khoảng thế kỷ 11-13. Đây đã từng là nơi đô hội, một nơi giao lưu kinh tế và văn hóa, một trung tâm của Mường Thanh. Theo tài liệu cổ, trong thành đã từng có các công trình kiến trúc như chùa và Tháp Vạt Bua Hom, đồi Pom Lót, các cổng thành. Năm 2013, đoàn khai quật Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã tiến hành khai quật trong thành, ngoài việc xác định lại các vòng thành, đoàn khai quật cũng đã tìm thấy dấu tích của nền kiến trúc cổ, khu Đồi Pom Lót - quả đồi nhân tạo các chúa Lự cho đất đắp lên đồi để các tổ chức các lễ hội, trò chơi… Tên thành Sam Mứn (tức Tam Vạn) cũng được hình thành từ âm thanh, hình ảnh của “ba vạn cối tròn, sáu vạn cối dài” ngày đêm giã gạo trong thành mà ra.

2. Thành Bản Phủ

Thế kỷ 18, giặc Phẻ từ phương Bắc tràn xuống chiếm được Mường Thanh và đóng quân trong thành Sam Mứn và tràn ra cướp phá khắp nơi. Cùng thời gian này, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã tiến lên vùng Tây Bắc liên kết các thủ lĩnh người Thái chống lại giặc Phẻ. Năm 1754, Hoàng Công Chất chỉ huy nghĩa quân mở trận tấn công, chiếm lại thành Sam Mứn, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, ông nhận thấy vị trí bất lợi của thành Sam Mứn, Hoàng Công Chất cho xây dựng thành Bản Phủ kiên cố hơn vào năm 1758.

Thành Bản Phủ.

Thành Bản Phủ, thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, cách thành Sam Mứn 2,5km về phía bắc. Thành dựa lưng vào sông Nậm Rốn, xung quanh phía ngoài Thành có hào sâu bao bọc, chân Thành rộng 15m, mặt Thành rộng 5m, cao 15m, phía ngoài ở tà luy được trồng 3 vạn gốc tre gai đem từ miền Tây Thanh Hóa lên. Năm 1769, thành Bản Phủ bị quân Trịnh chiếm đóng và phá hủy nhiền. Tuy nhiên, những dấu tích về thành vẫn còn khá rõ nét, thành có hình chữ nhật, chiều dài hơn hơn 100m, chiều rộng khoảng 70m. Thành dựa lưng vào sông Nậm Rốm, chân thành rộng 15m, mặt thành rộng 5m, cao 15m, tường thành đắp bằng đất, trồng 3 vạn gốc tre gai đem từ miền Tây Thanh Hóa lên Thành có các cửa: tiền, hậu, tả, hữu. Mỗi cửa có đồn cao và vọng gác...

Tuy chỉ đóng vai trò là trung tâm của cánh đồng Mường Thành trong hơn 10 năm ngắn ngủ, nhưng tại thành Bản Phủ, Hoàng Công Chất đã xây dựng được cho nhân dân ở đây đời sống kinh tế tương đối phát triển, củng cố được khối đoàn kết cộng đồng các dân tộc ở Mường Thanh. Để tưởng nhớ công ơn của ông, người dân đã xây dựng trong thành đền thờ Hoàng Công Chất cùng 6 thủ lĩnh nghĩa quân. Ngày nay, đền thờ Hoàng Công Chất đã trở thành một điểm tâm linh văn hóa không thể thiếu của đồng bào các dân tộc nơi đây.

Đền thờ Hoàng Công Chất.

Lòng chảo Mường Thanh vốn dĩ đã rất nổi tiếng với những di tích gắn liền với Chiến thắng Điện Biên Phủ như các di tích Đồi A1, C1, C2, D1, Hầm Đờ Cát, Sân bay Mường Thanh, Cứ điểm Hồng Cúm... Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc tới 2 tòa thành cổ trên. Thành Sam Mứn và thành Bản Phủ chính là chứng tích một thời hào hùng của cộng đồng các dân tộc miền Tây Bắc trong việc đoàn kết đánh đuổi giặc Phẻ năm 1754 để rồi sau 200 năm sau đó, năm 1954, lòng chảo Điện Biên cũng đã làm nên một chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Hiện nay, hai di tích thành Sam Mứn và thành Bản Phủ đều đã được xếp hạng là Di tích cấp Quốc gia và có những chiến lược nghiên cứu, trùng tu, bảo tồn, phát huy giá trị một cách hợp lý.

Chu Mạnh Quyền (Phòng NCST)

TLTK:

1. Nguyễn Văn Hòa 2010. Quam Tô Mương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên 2011. Đại Việt sử ký tục biên, (Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hưng dịch), Nxb. Văn hóa – Thông tin.

3. Trần Mạnh Thường 1996. Việt Nam Văn hóa và Du lịch, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội.

4. Viện Sử học 1988. Biên niên Lịch sử Cổ trung đại Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ: