10 thế kỷ đầu công nguyên là thời kỳ dân tộc ta chống lại ách thống trị của phong kiến phương Bắc, mở đầu bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 SCN chống lại đế chế Hán. Năm 938, cuộc kháng chiến của Ngô Quyền chống lại quân Nam Hán đã kết thúc thắng lợi trên sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc mở ra một kỷ nguyên độc lập cho nước nhà.
Trong thời kỳ này các ngành nghề thủ công ngày càng hoàn thiện, nghề sản xuất đồ gốm tiếp tục phát triển trên cơ sở kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng Trung Hoa. Nhiều khu lò gốm đã được phát hiện và nghiên cứu.
Thời kỳ này chúng ta vẫn thấy đâu đó kỹ thuật sản xuất, hoa văn trang trí trên gốm phong cách thời Đông Sơn, đó là gốm không men, hoa văn trang trí bằng kỹ thuật bàn đập, khắc vạch, thừng thô, thừng mịn….
Đặc điểm chính của hiện vật gốm men thời kỳ này đa phần có kích thước trung bình, xương gốm dày, men mỏng (còn gọi là men giấy) và thường không phủ trùm hết đế, men màu vàng nhạt, trắng nhạt hay xám, kỹ thuật chế tác chủ yếu được làm bằng khuôn, làm bằng tay rất ít, một số loại hình làm bằng bàn xoay như bát, hũ... Các vò, hũ Hán thường in nổi ô trám lồng, hình thoi, hình chữ S. Nhóm đồ gốm men được chia làm hai loại dựa vào công năng sử dụng của chúng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân: đồ gia dụng và đồ thờ cúng.
Đồ đất nung: mô hình nhà, mô hình giếng nước,các loại gạch xây tháp, xây thành….
- Gạch hình hộp chữ nhật, trong lòng một số viên rỗng, hai mặt trang trí hình 3 con ngựa, văn ô trám lồng, rìa cạnh để trơn, màu xám….
Một số viên gạch múi bưởi có trang trí văn trám lồng, các vạch ngang, hoa văn chữ S, văn thừng thô.
- Mô hình nhà: có nền, quanh có tường vây. Thông thường nhà chỉ có một tầng, cũng có khi nhà chính có hai tầng, trong tổng thể; đối diện với cửa là cổng, mái tường bao quanh và mái nhà là ngói ống.
- Mô hình bếp lò: có nhiều kiểu dáng phong phú, không nhất định là một kiểu. Kiểu dáng chung là hình chữ nhật, hai cạnh dài, ở giữa hơi phình, đuôi dần thót nhỏ. Mặt lò hơi vồng lên như hình mui thuyền, có khoét lỗ tròn để nồi. Đuôi khoét một lỗ nhỏ làm lỗ thoát khói.
Đồ gốm men
* Nhóm đồ gốm gia dụng: bát, đĩa, đĩa bồng, chén hai tai, hũ, bình, ấm, chậu, cốc….
- Bát: loại bát có chân đế gờ miệng viền tròn, thành vát, có một số bát đế cao, một số bát đế thấp, chiều cao trung bình từ 7-8cm, men trắng mỏng, thành ngoài thường khắc đường chỉ nằm ngang. Loại bát không có chân đế thấp men xám bóng, miệng khum, thành vát, không khắc đường chỉ, dưới đáy bát thường có ký hiệu dấu mũi tên hướng đi lên (↑) hay dấu gạch ngang.

Bát chân cao.
- Đĩa: số lượng ít, miệng khum, nông lòng, đáy phẳng, thành tương đối dày dặn.
- Đĩa bồng: miệng phẳng, lòng nông, chân đế cao, men vàng nhạt lòng đĩa thường có men đọng giọt màu xanh xám.
- Chén 2 tai: (nhĩ bôi) chén hình ô van có 2 tai, gờ miệng phẳng, thành cong, đế bằng để mộc.
- Hũ: chiếm số lượng chủ đạo trong đồ gốm men thời Hán với các loại có kích thước khác nhau, chiều cao trung bình 12cm về hình dáng có các kiểu sau:
+ Hũ men trắng mỏng, gờ miệng phẳng, thân hình cầu, đáy bằng, thành ngoài in nổi văn ô trám lồng, văn thừng….
+ Hũ men trắng xám, gờ miệng viền, thân phình, đáy bằng, trên thân in nổi văn ô trám lồng, một số loại trên thân không trang trí hoa văn, xương gốm dày, chắc, men trắng xám.
+ Hũ men trắng nhạt, gờ miệng phẳng, thân 3 phần, đáy bằng để mộc. Trên thân khắc 2 đường chỉ chìm và đắp 2 núm hình dải nơ.

Hũ trang trí hoa văn ô trám lồng.

Hũ men trắng mỏng.
- Bình: dáng con tiện, gờ miệng phẳng, cổ và chân cao, thân phình vai đắp nổi 2 quai nhỏ đối xứng. Trên thân và đế trang trí các đường chỉ, men trắng nhạt

- Ấm: có các loại
+ Ấm hình đầu gà: miệng ngắn, gờ phẳng, thân hình cầu, 3 chân thú, vòi hình đầu gà, quai hình chữ nhật, men trắng ngà. Trên thân có gờ nổi và đọng giọt men xanh.
+ Ấm hình vòi voi: miệng ngắn, cổ cao, vai phình, đáy lõm để mộc, vòi hình vòi voi, trên thân trang trí đường chỉ chìm, men trắng nhạt.
+ Ấm: cổ ngắn, vai phình, vòi thẳng, đáy bằng để mộc.
- Chậu: gờ miệng phẳng, vai phình, thân vát, đáy bằng để mộc, một số chậu quanh vai có một đường chỉ nổi chạm văn thừng, men trắng nhạt.
- Cốc: số lượng ít, men gốm mỏng bong tróc nhiều.
- Nghiên mực: gờ miệng phẳng, thân ngắn, một số hiện vật có chân.
- Tượng thú: thân hình trụ, mặt dẹt, miệng há, cổ ngắn, 4 chân rất ngắn, lưng khắc vạch văn xương cá, men trắng nhạt.
- Ngoài ra còn một số nắp gốm làm bằng đất sét trắng, xương gốm màu trắng xám hay trắng phấn.
* Nhóm đồ thờ: gồm lư hương, đỉnh, chân đèn, đế đèn.
- Lư hương: miệng loe, thân phình, 3 chân, thân khắc đường chỉ chìm, men trắng mỏng.
- Đỉnh: đỉnh miệng thấp, thân hình cầu, 3 chân thú, 2 quai chữ nhật đối xứng. Trên thân có gờ nổi, men trắng nhạt.
- Chân đèn: chân đèn có miệng hình đĩa, cổ cao chia nhiều ngấn, chân phình trổ thủng 2 băng tam giác và chữ nhật, đáy bằng, men trắng nhạt.
Sưu tập hiện vật gốm men thế kỷ 1-3 sau công nguyên là những minh chứng vô cùng quan trọng của lịch sử phát triển đồ gốm của nước ta. Trải qua những biến cố của lịch sử những hiện vật ấy vẫn được lưu giữ, bảo quản và phát huy giá trị trong kho của Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Nguyễn Thị Thanh Hiền (Phòng Quản lý hiện vật)